Bản án về xin ly hôn số 06/2022/DSST-HNGĐ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 06/2022/DSST-HNGĐ NGÀY 14/04/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 04/2021/TLST - HNGĐ ngày 29/01/2021 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐST- DS ngày 09/3/2022. Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2020/QĐHPT – DSST ngày 24/3/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị B, sinh năm: 1981.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Tân H, xã Hương H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình. Tạm trú: Thôn Đ, xã An B, huyện Thuận Th, tỉnh Bắc N (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Đinh Văn Kh , sinh năm: 1976.

Nơi ĐKHKTT: Thôn Tân H, xã Hương H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình. Tạm trú: Phạm Văn Th, tổ 50, đường Yên Th, ấp Thanh H, xã Hố N, huyện Trảng B, tỉnh Đồng N(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 21/01/2021 và bản tự khai ngày 10/3/2021 chị Nguyễn Thị B trình bày: Tôi (Nguyễn Thị B) và anh Đinh Văn Kh tìm hiểu để đi đến kết hôn với nhau do hai bên hoàn toàn tự nguyện không có ai ép buộc, đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Hương H, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình vào ngày 17/6/2006. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống tại nhà riêng tại thôn Tân H, xã Hương H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Kh thường xuyên uống rượu về đánh đập và đuổi chị Bé ra khỏi nhà nhiều lần nên vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Chị Nguyễn Thị B đi làm ăn tại thôn Đường, xã An B, huyện Thuận Th, tỉnh Bắc N. Anh Đinh Văn Kh vào làm ăn tại xã Hố N, huyện Trảng B, tỉnh Đồng N. Hiện tại tình cảm vợ chồng không còn nữa, mâu thuẫn không thể khắc phục được nên chị Nguyễn Thị B làm đơn xin ly hôn anh Đinh Văn Kh.

Về con chung của vợ chồng: Chị Nguyễn Thị B khai vợ chồng có ba đứa con chung tên là Đinh Thị Hồng V, sinh ngày: 25/4/2005; Đinh Ngọc B, sinh ngày 14/4/2010 và Đinh Thị Hoài A, sinh ngày 26/4/2012 cả ba đứa con hiện đang sống cùng chị Nguyễn Thị B tại thôn Tân H, xã Hương H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình sau khi ly hôn chị Bé có nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng và yêu cầu anh Kh phải đóng góp tiền nuôi cả ba đứa con mổi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng) Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Chị Nguyễn Thị B khai để vợ chồng tự phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị B đã nộp số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nay xin chịu toàn bộ.

Tòa án nhân dân huyện Tuyên H đã thụ lý vụ án theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị B và triệu tập hai bên đương sự đến tại trụ sở Tòa án huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình để giải quyết nhiều lần, nhưng việc triệu tập và thông báo tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải chỉ có mặt chị Nguyễn Thị B còn anh Đinh Văn Kh vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án nhân dân huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình đã quyết định ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án nhân dân huyện Trảng B, tỉnh Đồng N nơi anh Đinh Văn Kh tạm trú theo quy định của pháp luật.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuyên H phát biểu tại phiên tòa đối với Thẩm phán và Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ theo các quy định của pháp luật và tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã đảm bảo thực hiện đúng và đủ thành phần theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Quátrình giảiquyếtchị Nguyễn Thị B đều có mặt theo giấy triệu tập, thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án còn anh Đinh Văn Kh được Toà án nhân dân huyện Trảng B, tỉnh Đồng N triệu tập, thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hoà giải hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Toà án đã tiến hành uỷ thác thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà hôm nay chị Nguyễn Thị B có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để xét xử vắng mặt anh Đinh Văn Kh và chấp nhận đơn đề nghị xét xử vắng mặt của chị Nguyễn Thị B.

Về quan hệ hôn nhân đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xử chị Nguyễn Thị B được ly hôn anh Đinh Văn Kh.

Về con chung của vợ chồng đề nghị áp dụng các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình giao con Đinh Thị Hồng V, sinh ngày: 25/4/2005; Đinh Ngọc B, sinh ngày 14/4/2010 và Đinh Thị Hoài A, sinh ngày: 26/4/2012 cho chị Nguyễn Thị B chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi các con khôn lớn, trưởng thành.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng đề nghị áp dụng các Điều 107, Điều 110 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình buộc anh Đinh Văn Kh phải có trách nhiệm và nghĩa vụ góp tiền nuôi con Đinh Thị Hoài A, sinh ngày: 26/4/2012 mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Tài sản và công nợ: Chị Nguyễn Thị B không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị B đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuyên Hoá nay phải chịu toà bộ.

Án phí cấp dưỡng nuôi con anh Đinh Văn Kh phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng)

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị B xin ly hôn anh Đinh Văn Kh đều có hộ khẩu thường trú tại thôn Tân H, xã Hương H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình. Quá trình giải quyết chị Nguyễn Thị B có mặt còn anh Đinh Văn Kh mặc dù đã được Tòa án nhân dân huyện Trảng B, tỉnh Đồng N nơi anh Kh tạm trú tống đạt thủ tục tố tụng hợp lệ nhưng không đến Tòa án để lấy lời khai.Chứng tỏ anh Đinh Văn Khoa cố tình trốn tránh nghĩa vụ của mình không chấp hành pháp luật. Tòa án nhân dân huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình phải tạm đình chỉ giải quyết vụ án vì phải chờ kết quả ủy thác từ Tòa án huyện Trảng B, tỉnh Đồng N. Phiên tòa lần thứ nhất hoãn do anh Đinh Văn Kh vắng mặt. Tòa án tiến hành mở phiên toà xét xử lần thứ hai anh Đinh Văn Kh vẫn tiếp tục vắng mặt còn chị B có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để xét xử vắng mặt anh Đinh Văn Kh và chấp nhận đơn đề nghị xét xử vắng mặt của chị Nguyễn Thị B.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị B và anh Đinh Văn Kh tìm hiểu để đi đến kết hôn là do hai bên hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc đã đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên đây là cuộc hôn nhân hợp pháp, nhưng do trong quá tình chung sống anh Kh thường xuyên uống rượu rồi đánh đập chị Bé, đuổi ra khỏi nhà nhiều lần nên chị Bé bỏ đi làm ănvợ chồng sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị B và anh Đinh Văn Kh thực sự không còn nữa, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị B đối với anh Đinh Văn Kh là có căn cứ phù hợp với các quy định của pháp luật. Vì vậy cần áp dụng khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để xét xử chị Nguyễn Thị B được ly hôn anh Đinh Văn Kh.

[3] Về con chung của vợ chồng: Chị Nguyễn Thị B khai vợ chồng có ba đứa con chung từ khi vợ chồng ly thân các con đều ở với chị B. Nguyện vọng của các con sau khi bố mẹ ly hôn xin được ở với mẹ là chị Nguyễn Thị B. Chị B củng có nguyện vọng xin được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng các con cho đến lúc khôn lớn, trưởng thành. Hội đồng xét xử thấy nguyện vọng của chị B cũng như các con là hoàn toàn chính đáng và phù hợp vì vậy cần áp dụng các Điều 81, Điều 82 , Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình giao con Đinh Thị Hồng V, sinh ngày:

25/4/2005; Đinh Ngọc B, sinh ngày 14/4/2010 và Đinh Thị Hoài A, sinh ngày 26/4/2012 cho chị Nguyễn Thị B trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi các con khôn lớn, trưởng thành.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị B có yêu cầu anh Đinh Văn Kh phải có trách nhiệm và nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi ba đứa con mỗi tháng 2.000.000đ (hai triệu đồng). Hội đồng xét xử thấy nguyện vọng của chị B là chính đáng nhưng con Đinh Thị Hồng V gần đủ 18 tuổi còn lại hai đứa con còn nhỏ nên cần giao cho mổi người nuôi một đứa là phù hợp vì vậy cần áp dụng các Điều 107, Điều 110 và Điều 116 luật hôn nhân và gia đình để buộc anh Đinh Văn Kh phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp tiền nuôi con Đinh Thị Hoài A, sinh ngày 26/4/2012 mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) cho đến lúc con đủ 18 tuổi. Thời gian tính từ tháng 5/2022. Chị Nguyễn Thị B không được ngăn cản việc đi lại chăm sóc con chung đối với anh Đinh Văn Kh, trường hợp cần thiết vì quyền lợi của con anh Đinh Văn Kh có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con .

[4] Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Chị Nguyễn Thị B để vợ chồng tự phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị B đã nộp 300.000đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số 0000021 ngày 29/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên H nay phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Án phí cấp dưỡng nuôi con anh Đinh Văn Khoa phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị B đối với anh Đinh Văn Kh Áp dụng khoản 1, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để xét xử vắng mặt anh Đinh Văn Kh và chấp nhận đơn đề nghị xét xử vắng mặt của chị Nguyễn Thị B.

1.Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử: Chị Nguyễn Thị B được ly hôn anh Đinh Văn Kh.

2. Về con chung của vợ chồng: Áp dụng các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình: Giao con Đinh Thị Hồng V, sinh ngày: 25/4/2005; Đinh Ngọc B, sinh ngày 14/4/2010 và Đinh Thị Hoài A, sinh ngày 26/4/2012 cho chị Nguyễn Thị B chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cá c con khôn lớn, trưởngthành.

3. Áp dụng các Điều 107, Điều 110 và Điều 116 luật hôn nhân và gia đình buộc Anh Đinh Văn Kh phải có trách nhiệm và nghĩa vụ đóng góp tiền nuôi con Đinh Thị Hoài A, sinh ngày 26/4/2012 hàng tháng mỗi tháng 1.000.000đ (một triệu đồng) cho đến lúc con đủ 18 tuổi. Thời gian tính từ tháng 5/2022. Chị Nguyễn Thị B không được ngăn cản việc đi lại chăm sóc con chung đối với anh Đinh Văn Khoa, trường hợp cần thiết vì quyền lợi của con anh Đinh Văn Kh có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

4. Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Chị Nguyễn Thị B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về án phí ly hôn: Chị Nguyễn Thị B phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền mà chị Nguyễn Thị B đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ theo biên lai số: 0000021 ngày 29/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Như vậy chịNguyễn Thị B đã nộp đủ khoản án phí dân sự sơ thẩm.

Án phí cấp dưỡng nuôi con anh Đinh Văn Khoa phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt Nguyễn Thị B và anh Đinh Văn Kh. Tuyên bố chị B và anh Kh có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã Hương H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 06/2022/DSST-HNGĐ

Số hiệu:06/2022/DSST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về