TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 64/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/12/2021 VỀ XIN LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 03 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 512/2021/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 154/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kiều T, sinh năm 1983; HKTT: Ấp 1 xã B, huyện M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; tạm trú: khu phố N, phường Lái Thiêu, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Ông Dương Hoàng D, sinh năm 1981; HKTT: Ấp 1 xã B, huyện M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; tạm trú: khu phố N, phường Lái Thiêu, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện ngày 16/4/2021, bản tường trình ngày 26/10/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kiều T trình bày: Bà T và ông Dương Hoàng D tự nguyện tìm hiểu, kết hôn và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường An Khánh, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận kết hôn số 95 quyển số 01/2009 ngày 16 tháng 7 năm 2009. Thời gian đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, đến đầu năm 2018 xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng trong cuộc sống dẫn đến hôn nhân không hòa hợp, thường xuyên cãi nhau, ông D nhậu say về đập phá đồ đạc, không quan tâm gia đình và không chia sẻ khó khăn với vợ con, do đó vợ chồng đã sống ly thân từ lâu. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với ông Dương Hoàng D.
Về con chung: Quá trình chung sống, có 02 con chung tên Dương Hoàng Hạ V, sinh ngày 05/8/2010 và Dương Hoàng Như Y, sinh ngày 24/6/2012. Bà T yêu cầu được nuôi hai con chung và không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Kèm theo ý kiến, yêu cầu của mình, nguyên đơn đã cung cấp các tài liệu, chứng cứ: Căn cước công dân, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú của bà T và ông D (bản sao chứng thực); Giấy kết hôn (bản chính); giấy trích lục khai sinh cháu Dương Hoàng Như Y và Dương Hoàng Hạ V (bản sao);
* Đối với bị đơn ông Dương Hoàng D: Ông D đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các thông báo công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông D không đến Tòa và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Tòa án nhân dân thành phố Thuận An thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố Tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70, 72, 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến và yêu cầu khắc phục gì thêm về tố tụng. Về mặt nội dung: căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Mâu thuẫn giữa bà T và ông D đã trầm trọng, không thể hàn gắn làm cho mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình. Về con chung là cháu Dương Hoàng Hạ V và Dương Hoàng Như Y giao cho bà T nuôi dưỡng là phù hợp; về cấp dưỡng nuôi con bà T không yêu cầu nên không xem xét; tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về tố tụng: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kiều T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Dương Hoàng D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại các điều 227, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông D tự nguyện tìm hiểu và kết hôn năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường An Khánh, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận kết hôn số 95 quyển số 01/2009 ngày 16 tháng 7 năm 2009 là đúng quy định về đăng ký kết hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Nguyên đơn bà T khai sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, thời gian gần đây phát sinh mâu thuẫn do ông D không chăm lo gia đình nuôi dạy con cái, vợ chồng hay cãi nhau, ông D nhậu say về nhà đập phá đồ đạc, vợ chồng không quan tâm nhau và đã sống ly thân, hiện nay vẫn không thể hàn gắn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông D.
Xét thấy, trong hôn nhân vợ chồng phải yêu thương, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau về mọi mặt để xây dựng hạnh phúc gia đình. Mặc d trong cuộc sống vợ chồng không thể tránh kh i những mâu thuẫn, xung đột nhưng vợ chồng phải tìm cách giải quyết, hàn gắn. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo cho ông D về nội dung yêu cầu của bà T, các thông báo và triệu tập để hòa giải, giải quyết vụ án nhưng ông D vẫn không đến Tòa án làm việc và cũng không có bất kỳ ý kiến nào đối với yêu cầu khởi kiện của bà T, chứng t ông D không có ý muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Xét tình trạng mâu thuẫn giữa bà T và ông D đã đến mức trầm trọng, vợ chồng bà T ông D đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, bà T yêu cầu được ly hôn với ông D là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về con chung: Bà Trang khai có 02 con chung tên Dương Hoàng Hạ V, sinh ngày 05/8/2010 và Dương Hoàng Như Y, sinh ngày 24/6/2012. Bà T yêu cầu được nuôi hai con chung và không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.
Xét trong quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết ông D không có bất kỳ ý kiến và yêu cầu nào liên quan con chung, hiện nay các con chung đang sống cùng bà T và đều nguyện vọng được sống cùng mẹ nên giao các con chung cho bà T nuôi dưỡng là phù hợp.
- Về cấp dưỡng: Hiện tại bà T không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con nên không giải quyết.
- Ông D có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp ông D lạm dụng quyền thăm nom con để gây khó khăn, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung thì bà T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con, chăm sóc con chung theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
- Vì quyền và lợi ích hợp pháp của con chung chưa thành niên là cháu Dương Hoàng Hạ V, sinh ngày 05/8/2010 và Dương Hoàng Như Y, sinh ngày 24/6/2012, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.
- Tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
[4] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ.
[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, các điều 147, 227, 228, 266, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
- Áp dụng các điều 56, 81, 82, 83, 84, 110 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kiều T đối với bị đơn ông Dương Hoàng D về việc xin ly hôn, tranh chấp nuôi con.
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kiều T được ly hôn với ông Dương Hoàng D.
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, giấy chứng nhận kết hôn số 95 quyển số 1/2009 ngày 16/7/2009, do Ủy ban nhân dân phường An Khánh, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà Nguyễn Thị Kiều T và ông Dương Hoàng D không còn giá trị pháp lý.
- Về con chung: Giao 02 con chung là cháu Dương Hoàng Hạ V, sinh ngày 05/8/2010 và Dương Hoàng Như Y, sinh ngày 24/6/2012 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.
Ông D có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp ông D lạm dụng quyền thăm nom con để gây khó khăn, cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung thì bà T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm con, chăm sóc con chung theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Về cấp dưỡng: Hiện bà T không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.
Vì quyền và lợi ích hợp pháp của 02 con chung chưa thành niên là cháu Dương Hoàng Hạ V, sinh ngày 05/8/2010 và Dương Hoàng Như Y, sinh ngày 24/6/2012, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con khi có yêu cầu.
- Về tài sản chung, nợ chung: bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Kiều T phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016-0055467 ngày 01/6/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương.
3. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai./.
Bản án về xin ly hôn, nuôi con số 64/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 64/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về