Bản án về xin ly hôn, nuôi con số 58/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ G, TỈNH B

BẢN ÁN 58/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ XIN LY HÔN, NUÔI CON

Vào ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh B tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 174/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2021/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 40/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ý Nh – sinh năm 1998 Trú tại: Ấp C, xã Đ, huyện Đ, tỉnh B. (vắng mặt)

* Bị đơn: Anh Bùi Tấn H – sinh năm 1994.

Trú tại: Khóm 2, Phường 1, thị xã G, tỉnh B. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai, chị Nguyễn Thị Ý Nh, là nguyên đơn trình bày: Chị Nh và anh Bùi Tấn H tự nguyện chung sống như vợ chồng vào năm 2019, có tổ chức lễ cưới hỏi và được Ủy ban nhân dân Phường 1, thị xã G, tỉnh B cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/12/2019. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do chị Nh về làm dâu bên gia đình anh H, vợ chồng chung sống đến tháng 02/2020 anh H thường xuyên bỏ nhà đi chơi, không quan tâm chăm sóc vợ, con. Không những thế, anh H còn tiêu xài phung phí làm tiêu tán hết tài sản của vợ chồng là 05 cây vàng 24K do cha mẹ hai bên cho trong ngày cưới. Chị Nh khuyên ngăn Nhều lần nhưng anh H không nghe làm cho tình cảm vợ chồng rạn nứt. Do không thể chịu đựng được, cộng với việc một mình nuôi con nhỏ gặp Nhều áp lực nên từ tháng 01/2021 đến nay chị Nh đã về nhà cha mẹ ruột sống. Nay xét thấy mâu thuẫn đã trầm trọng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn nên chị Nh xin ly hôn với anh Bùi Tấn H. Khi ly hôn, chị Nh yêu cầu được nuôi con là cháu Bùi Mỹ K, sinh ngày 31/7/2020, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, hiện cháu K đang sống với chị Nh; Về tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có nên chị Nh không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, chị Nh không yêu cầu gì thêm.

* Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh H, nhưng anh H đều vắng mặt và không gửi văn bản hay ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu xin ly hôn của chị Nh cho Tòa án.

* Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã G, tỉnh B phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ theo thủ tục tố tụng và các văn bản có liên quan nên về hình thức tố tụng Viện kiểm sát xét thấy bảo đảm đủ điều kiện và hợp pháp. Nguyên đơn là chị Nh chấp hành đúng theo quy định của pháp luật. Bị đơn là anh H không chấp hành đúng theo quy định của pháp luật, dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không rõ lý do, chị Nh có đơn xin xét xử vắng mặt nên đề nghị Hi đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nh và anh H.

- Về nội dung vụ án:

+ Về hôn nhân: Chị Nh và anh H chung sống có đăng ký kết hôn. Qua phần trình bày của chị Nh và các tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập có đủ căn cứ xác định chị Nh và anh H có xảy ra mâu thuẫn vợ chồng nên đề nghị Hi đồng xét xử chấp nhận cho chị Nh được ly hôn với anh H.

+ Về con chung: Đề nghị giao cháu Bùi Mỹ K, sinh ngày 31/7/2020 cho chị Nh trực tiếp nuôi dạy, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nh không yêu cầu.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Do chị Nh và anh H đều không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hi đồng xét xử nhận định nội dung vụ kiện như sau:

* Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Ý Nh khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Bùi Tấn H và yêu cầu được nuôi con nên đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Bùi Tấn H có địa chỉ cư trú tại Khóm 2, Phường 1, thị xã G, tỉnh B nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã G theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về thủ tục tố tụng: Xét thấy bị đơn anh Bùi Tấn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị Nh có đơn xin xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Nh theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự

* Về mặt nội dung:

[1] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nh với anh H, Hi đồng xét xử thấy rằng: Theo lời trình bày của chị Nh và giấy chứng nhận kết hôn thể hiện: chị Nh và anh H tự nguyện chung sống vợ chồng từ năm 2019, có tổ chức lễ cưới hỏi và được được Ủy ban nhân dân Phường 1, thị xã G, tỉnh B cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/12/2019 nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Chị Nh xác định quá trình chung sống vợ chồng có Nhều mâu thuẫn làm cho tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Nh xin ly hôn với anh H; còn anh H thì không có thiện chí hòa giải, cũng không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu xin ly hôn của chị Nh. Mặt khác, hôn nhân phải được xây dựng trên nền tảng tình cảm xuất phát từ hai phía vợ và chồng nhưng hiện tại chị Nh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn thì có chung sống tiếp cũng không hạnh phúc. Từ những nhận định trên, Hi đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nh đối với anh H.

[2] Về con chung: Căn cứ các chứng cứ liên quan như lời trình bày của chị Nh, giấy khai sinh thì có đủ cơ sở xác định cháu Bùi Mỹ K, sinh ngày 31/7/2020 là con chung của chị Nh và anh H. Xét yêu cầu xin nuôi con của chị Nh, Hi đồng xét xử thấy rằng cháu K tuổi còn rất nhỏ, chưa đủ 36 tháng tuổi, hiện nay cháu cũng đang sống ổn định với chị Nh. Mặt khác, chị Nh xác định chị có đủ điều kiện để nuôi con, anh H thì không có ý kiến gì về việc yêu cầu nuôi con của chị Nh. Để tránh xáo trộn tâm lý của con sau này, cũng như điều kiện sống hiện tại của con nên việc giao cháu K cho chị Nh nuôi dưỡng là phù hợp, không trái đạo đức xã Hi, cũng như không trái quy định của pháp luật. Do đó, Hi đồng xét xử có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu xin nuôi con của chị Nh, giao cháu K cho chị Nh trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nh không yêu cầu.

Anh Bùi Tấn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được quyền cản trở.

[3] Về tài sản chung: Chị Nh xác định vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản chung, không yêu cầu nên Hi đồng xét xử không xem xét giải quyết. Riêng đối với anh H do trong quá trình giải quyết vụ án anh không có ý kiến gì về phần tài chung nên Hi đồng xét xử không tiến hành xem xét. Nếu xảy ra tranh chấp, anh H và chị Nh có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn ở một vụ án độc lập khác.

[4] Về nợ chung: Chị Nh xác định vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu, anh H cũng không có ý kiến gì nên Hi đồng xét xử không tiến hành xem xét giải quyết.

[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Ý Nh là nguyên đơn xin ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng.

Như đã phân tích ở trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hi khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ý Nh;

Xử cho ly hôn mối quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Ý Nh và anh Bùi Tấn H.

2/. Về con chung: Giao cháu Bùi Mỹ K, sinh ngày 31/7/2020 cho chị Nguyễn Thị Ý Nh trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, hiện cháu K đang sống chung với chị Nh. Anh Bùi Tấn H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nh không yêu cầu.

Anh Bùi Tấn H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được quyền cản trở.

3/. Về tài sản chung: Chị Nh xác định tự thỏa thuận tài sản chung, anh H không có ý kiến gì nên Hi đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4/. Về nợ chung: Chị Nh xác định không có nợ chung, anh H không có ý kiến gì nên Hi đồng xét xử không đặt ra xem xét.

5/. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ý Nh phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị Nh đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003663 ngày 02/7/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã G được chuyển thu án phí.

Án xử công khai, chị Nh và anh H vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn, nuôi con số 58/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:58/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về