TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ - TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 15/2023/DS-ST NGÀY 30/09/2023 VỀ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG, TÀI SẢN RIÊNG, TRANH CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ
Ngày30tháng9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:06/2023/TLST- DS ngày 01 tháng 3 năm 2023về việc xác định tài sản riêng và tranh chấp chia di sản thừa kế, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
11/2023/QĐXX-ST ngày 24tháng 8 năm 2023, quyết định hoãn phiên tòa giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:Cụ Phạm Thị B, sinh năm 1938;
Địa chỉ: Thôn Đồng B, xã Dân C, huyện Tứ Ktỉnh Hải Dương.
- Người đại diện theo ủy quyền của cụ B là: Ông Đinh Ngọc P, sinh năm 1970; Địa chỉ: Đ30 Lạc Long Q, phường L, thành phố Hải D, tỉnh Hải Dương.
- Bị đơn: Bà Phạm Thúy S, sinh năm 1965;
Địa chỉ: Thôn Đồng B, xã Dân C, huyện Tứ Ktỉnh Hải Dương.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1956;
+ Anh PHạm PHú Đ, sinh năm 1979;
+ Anh Phạm Phú H, sinh năm 1980;
+ Chị Phạm Thị H, sinh năm 1987;
Đều trú tại: Thôn C, xã S, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum.
+ Ông Phạm Phú N, sinh năm 1966;
Trú tại: Thôn Đồng B, xã Dân C, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông N là: Ông Đinh Ngọc P, sinh năm 1970; Địa chỉ: Đ30 Lạc Long Q, phường L, thành phố Hải D, tỉnh Hải Dương.
+ Ông Phạm Phú Sa, sinh năm 1966 và bà Phạm Thị K, sinh năm 1966;
Đều trú tại: Tổ 21, khu phố 2, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
(Tại phiên tòa có mặt cụ B, bà S, ông P. Vắng mặt bà T, anh Đ, anh H, chị Hu, ông N, ông Sa, bà K).
NỘI DUNG VỤ ÁN
-Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn cụ Phạm Thị B và người đại diện theo ủy quyền của cụ là ông Đinh Ngọc Ptrình bày và yêu cầu Tòa án giải quyết các nội dung như sau:
Cụ B đề nghị: Xác định phần tài sản riêng của cụ trong khối tài sản chung với cụ Phạm Phú X và chia di sản thừa kế phần của cụ X để lại theo quy định của pháp luật. Đối với di sản cụ X để lại, cụ B đề nghị nhận toàn bộ bằng hiện vật và có trách nhiệm thanh toán trả cho các đồng thừa kế khác bằng tiền.
Căn cứ: Cụ Phạm Thị B và cụ Phạm Phú X kết hôn từ năm 1955. Quá trình chung sống vợ chồng sinh được 04 người con gồm: Phạm Phú H sinh năm 1957 chết năm 2011 (ông H có vợ là bà Nguyễn Thị T và 03 con là Phạm Phú Đ, Phạm Phú H, Phạm Thị H);Phạm Phú N, sinh năm 1960; Phạm Phú Sa sinh năm 1966; Phạm Thúy S sinh năm 1965. Vợ chồng cụ không có người con nuôi nào và cụ X cũng không có người con riêng nào. Bố mẹ của cụ X là cụ Phạm Phú Quế và cụ Phạm Thị Chuông đều đã chết từ lâu, chết trước cụ X.
Quá trình chung sống hai cụ tạo lập được những tài sản chung gồm: thửa đất số 266, tờ bản đồ số 08 diện tích 654 m2, tại thôn Đồng B xã Dân Chủ huyện Tứ Kỳ được UBND huyện Tứ Kỳ cấp GCNQSDĐ ngày 25/01/2000 đứng tên cụ Phạm Phú X; 01 ngôi nhà mái bằng diện tích 33,2m2 và lán. Đến ngày 12/10/2020, cụ X chết. Trước khi chết, cụ X không để lại di chúc. Khi còn sống, thửa đất số 266, cụ B và cụ X không phân định đâu là phần đất của cụ X và đâu là phần đất của cụ B.
Trong thời gian vừa qua, cụ B muốn phần chia di sản thừa kế của ông X và phân định phần tài sản của cụ nhưng qua nhiều lần nội bộ gia đình tự thỏa thuận phân chia phần di sản của ông X nhưng không có sự đồng thuận.
Khi cụ X còn sống cụ và cụ X đã tạo dựng nhà cho con trai là Phạm Phú H và con trai thứ Phạm Phú N, hiện nay vợ con ông H và ông N nói rằng sẽ tặng cho cụ kỷ phần của hai ông. Đối với bà S và ông Sa thì chưa có sự đồng thuận. Nay cụ đề nghị Tòa án phân chia tài sản riêng của cụ trong khối tài sản nêu trên và tài sản trên đất. Phần di sản của cụ X là 50% giá trị khối tài sản nêu trên được chia theo quy định của pháp luật. Cụ B đề nghị được nhận bằng hiện vật và có trách nhiệm trả các đồng thừa kế khác giá trị bằng tiền.
Ngoài ra, khi ông Sa lấy vợ thì vợ chồng ông Sa ở chung với cụ, sau đó do nhà chật nên đã xin cụ cho làm nhờ một ngôi nhà trên. Năm 1998 vợ chồng ông Sa đã làm nhà rộng khoảng 20 m2 trên đất. Đến năm 2010 thì vợ chồng ông Sa vào Đồng Nai sinh sống. Cụ B xác định ngôi nhà này của vợ chồng ông Sa làm trên đất của vợ chồng cụ nên khi cụ nhận bằng hiện vật sẽ thanh toán trả vợ chồng ông sang giá trị ngôi nhà bằng tiền.
- Bị đơn bà Phạm Thúy S trình bày: Bà là con gái của cụ Phạm Thị B và cụ Phạm Phú X, hai cụ có 04 người con là ông N, ông Sa, ông H và bà, ông H đã chết có vợ là bà T và 03 con là cháu Đ, cháu H và cháu Hu. Năm 2020 cụ X chết không để lại di chúc. Khi còn sống bố mẹ bà có tạo dựng được khối tài sản chung là thửa đất số 266, tờ bản đồ số 08 diện tích 654 m2, tại thôn Đồng B xã Dân Chủ huyện Tứ Kỳ được UBND huyện Tứ Kỳ cấp GCNQSDĐ ngày 25/01/2000 đứng tên cụ Phạm Phú X và các tài sản trên đất. Ngoài ra trên đất còn có một ngôi do vợ chồng ông Sa làm nhờ trên đất của bố mẹ bà vào năm 1998, hiện ông Sa cùng vợ đang sinh sống tại Đồng Nai. Đến nay cụ B đề nghị Tòa án xác định tài sản riêng của cụ trong khối tài sản chung với cụ X và đề nghị chia di sản do cụ X để lại thì bà nhất trí. Đối với phần quyền lợi của bà từ việc hưởng thừa kế của cụ X thì bà có quan điểm không nhận mà tặng cho cụ B.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Phạm Phú N trình bày: Ông là con của cụ B và cụ X, về tài sản là diện tích đất và các tài sản khác trên đất ông nhất trí như lời trình bày của cụ B và bà S. Ông nhất trí với yêu cầu khởi kiện của cụ B, đối với phần quyền lợi của ông từ việc hưởng thừa kế di sản do cụ X để lại thì ông có quan điểm không nhận mà tặng cho cụ B.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị T, anh Phạm Phú Đ và anh Phạm Phú H trình bày: Bà T là vợ ông H và là con dâu của cụ B và cụ X, bà T và ông H có 03 người con là anh Đ, anh H và chị Hu. Gia đình bà hiện đang sống tại huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, năm 2011 ông H chết không để lại di chúc. Đối với yêu cầu khởi kiện của cụ B bà và các con hoàn toàn nhất trí và xác định cụ B và cụ X có các tài sản như cụ B đã trình bày. Đối với phần quyền lợi của ông H được hưởng từ di sản cụ X để lại thì bà và các con đồng ý nhận và đề nghị được nhận giá trị bằng tiền.
- Biên bản xác minh tại UBND xã Dân Chủ thể hiện: Cụ Phạm Thị B và cụ Phạm Phú X có diện tích đất là 654 m2, trong đó 300 m2 đất ở và 354 m2 đất trông cây lâu năm được thể hiện tại thửa số 266 tờ bản đồ số 8 địa chỉ thôn Đồng B, xã Dân Chủ và được UBND huyện Tứ Kỳ cấp GCN QSD đất vào ngày 25/01/2000 mang tên cụ Phạm Phú X. Ngoài phần diện tích đất của cụ X còn có một phần diện tích đất ao 144 m2 không thuộc quyền sử dụng của cụ X là vì cụ không đồng ý nhập phần diện tích đất này vào diện tích đất của cụ để được cấp giấy chứng nhận QSD đất. Khi cấp giấy gia đình cụ X không bị trừ đất 03 ngoài đồng vào diện tích đất được cấp. Đến nay hiện trạng sử dụng đất có tăng lên so với giấy chứng nhận cụ thể phần diện tích đất tăng 75,7 m2 là do sai số trong quá trình đo đạc, phần diện tích đất ao tăng 17,6 m2 do sạt lở vào đất của cụ X.
Tại phiên tòa:
- Người đại diện theo ủy quyền của cụ B là ông P giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án xác định tài sản riêng của cụ B trong khối tài sản chung với cụ X và chia di sản thừa kế của cụ X. Đối với việc bà S, ông N tặng cho phần quyền lợi của ông bà từ việc hưởng thừa kế của ông X thì cụ B đồng ý nhận. Đối với di sản cụ X để lại cụ B đề nghị được nhận toàn bộ bằng hiện vật và có trách nhiệm thanh toán trả các đồng thừa kế khác bằng tiền.
- Bà S: Nhất trí đối với yêu cầu khởi kiện của cụ B. Đối với phần quyền lợi bà được hưởng từ di sản cụ X để lại bà đồng ý tặng cho cụ B.
-Đại diện VKSND huyện Tứ Kỳ tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng đến trước thời điểm HĐXX nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng cácĐiều 161, 611, 612, 613, 614, 623, 650, 651, 652, 660 Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Phạm Thị B.
Xác định cụ Phạm Thị B và cụ Phạm Phú X trong thời kỳ hôn nhân có các tài sản chung gồm: thửa đất số 266, tờ bản đồ số 08 diện tích 654 m2 (hiện trạng là 747,3 m2), tại thôn Đồng B xã Dân Chủ huyện Tứ Kỳ được UBND huyện Tứ Kỳ cấp GCNQSDĐ ngày 25/01/2000 đứng tên cụ Phạm Phú X và các tài sản trên đất(Trừ ngôi nhà mái bằng do vợ chồng ông Sa, bà K xây dựng trên đất). Xác định tài sản riêng của cụ B là 1/2 giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản trên đất. Di sản thừa kế cụ X để lại là /2 giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản trên đất.
Xác định những người trong hàng thừa kế của cụ X là cụ B, ông N, bà S, ông Sa, thừa kế thế vị của ông H gồm anh Phạm Phú Đ, Phạm Phú H, chị Phạm Thị H.
Chấp nhận sự tự nguyện của ông Phạm Phú N và bà Phạm Thúy Sơn về việc tặng cho cụ B phần kỷ phần mà ông N và bà S được hưởng Giao toàn bộ diện tích đất, các tài sản trên đất bao gồm cả ngôi nhà do vợ chồng ông Sa, bà K xây dựng cho cụ B sở hữu, sử dụng. Do bà S và ông Nkhông nhận di sản mà tặng cho cụ B nên cụ B chỉ phải thanh toán trả giá trị bằng tiền cho ông Sa và những người thừa kế thế vị của ông H theo kỷ phần được hưởng. Ngoài ra cụ B còn phải thanh toán trả vợ chồng ông Sa, bà K giá trị bằng tiền đối với ngôi nhà do ông Sa, bà K xây dựng trên đất.
Ngoài ra đại diện VKS còn đề nghị về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Cụ Phạm Thị B có đơn khởi kiện về việc công nhận thửa đất số 266 tờ bản đồ số 8 diện tích 650 m2 tại thôn Đồng B, xã Dân C, huyện Tứ Ktỉnh Hải Dương và các tài sản trên đất là tài sản chung của cụ và cụ Phạm Phú X; Xác định tài sản riêng của cụ B là 1/2 diện tích đất tại thửa đất nêu trên và 1/2 tài sản trên đất; Chia di sản thừa kế của cụ Phạm Phú X là 1/2 diện tích đất còn lại và 1/2 tài sản trên đất cho những người thừa kế theo quy định pháp luật. Cụ X trước khi chết sinh sống cùng cụ B tại thôn Đồng B, xã Dân C, huyện Tứ Ktỉnh Hải Dương.Do đó, xác định đây là vụ án dân sự về "Tranh chấp chia di sản thừa kế" theo quy định tại khoản 5 Điều 26 BLTTDS và Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ thụ lý vụ án giải quyết là đúng về thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 BLTTDS.
[1.2] Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: Bà Nguyễn Thị T, anh Phạm Phú Đ, anh Phạm Phú H, chị Phạm Thị H, ông Phạm Phú Sa, bà Phạm Thị K đã được Tòa án triệu tập 02 lần hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt những người này theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS [2] Về nội dung:
[2.1] Xác định tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa cụ Phạm Phú X và cụ Phạm Thị B; phần tài sản riêng của cụ B trong khối tài sản chung:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định cụ Phạm Thị B và cụ Phạm Phú X kết hôn từ năm 1955. Trong thời kỳ hôn nhân, hai cụ tạo lập được khối tài sản chung gồm:
-Diện tích 747,3 m2 (gồm 300 m2 đất ở và 447,3 m2 đất trông cây hàng năm) tại thửa đất số 266, tờ bản đồ số 8 có địa chỉ tại thôn Đồng B, xã Dân C, huyện Tứ Ktỉnh Hải Dương. Theo kết quả định giá tài sản 1m2 đất ở có giá 1.120.000đ; 1m2 đất trồng cây hàng năm có giá 80.000đ. Tổng cộng 371.784.000đ (Ba trăm bẩy mươi mốt triệu bẩy trăm tám mươi tư nghìn đồng) - Các tài sản trên đất gồm: 01 nhà mái bằng số 02 tường xây 220 nền lát gạch Ceramic xây năm 2000, diện tích 33,2m2 có trị giá 76.293.000 đồng; 01 nhà ngang phía trước nhà mái bằng số 2 xây năm 2000 diện tích 8,8m2, nền lát gạch Ceramic có giá 20.222.000 đồng; 03 cây na trị giá 270.000đ/cây; 02 cây nhãn trị giá 650.000đ/cây; 02 cây xoài trị giá 270.000đ/ cây; 01 cây bơ trị giá 50.000đ; 03 cây hồng xiêm trị giá 180.000đ/cây; 07 cây tre trị giá 16.000đ/cây;
07 cây bưởi trị giá 420.000đ/cây; 02 cây vải trị giá 530.000đ/cây; 01 cây vú sữa trị giá 750.000đ; 01 cây sung trị giá 200.000đ và một số công trình khác trên đất đã hết khấu hao, có giá trị bằng 0 đồng. Tổng cộng 104.817.000đ (Một trăm linh bốn triệu tám trăm mười bẩy nghìn đồng) Tổng giá trị tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa cụ B và cụ X là 476.601.000đ (Bốn trăm bẩy mươi sáu triệu sáu trăm linh một nghìn đồng).
Phần tài sản riêng của cụ B trong khối tài sản chung với cụ X là /1/2 tổng giá trị tài sản nêu trên: 476.601.000đ : 2 = 238.300.500đ (Hai trăm ba mươi tám triệu ba trăm nghìn năm trăm đồng).
Ngoài ra trên đất còn có 01nhà mái bằng số 01 diện tích 38,2m2, tường xây 220 nền lát gạch Ceramic xây năm 2001 trị giá 87.783.000 đồng là tài sản riêng của vợ chồng ông Sa, bà K.
[2.1] Xác định thời điểm mở thừa kế và hàng thừa kế:
Cụ Phạm Thị B và cụ Phạm Phú X kết hôn từ năm 1955, hai cụ có 04 người con gồm: ông Phạm Phú H chết năm 2011, Phạm Phú N, sinh năm 1960, Phạm Phú Sa sinh năm 1966, Phạm Thúy S sinh năm 1965. Vợ chồng cụ không có người con nuôi nào và cụ X cũng không có người con riêng nào. Bố mẹ của cụ X là cụ Phạm Phú Quế và cụ Phạm Thị Chuông đều đã chết từ lâu, chết trước cụ X.
Cụ X chết năm 2020 nên thời điểm mở thừa kế của cụ X là năm 2020 và những người hưởng di sản của cụ X để lại gồm: cụ B, ông N, ông Sa, bà S, ông H. Do ông H chết năm 2011, chết trước cụ X nên ngườithừa kế thế vị của ông H gồm các con ông H là anh Đ, anh H, chị Hu [2.2] Về di sản thừa kế, cách chia di sản thừa kế và hiện trạng giao đất: Cụ X trước khi chết có để lại di sản là 1/2 tài sản trong khối tài sản chung của cụ và cụ B. Tổng giá trị tài sản chung của cụ B và cụ X là 476.601.000đ nên xác định di sản thừa kế cụ X để lại trị giá 238.300.500đ Di sản của cụ X được chia cho 05 kỷ phần gồm: cụ B, ông N, ông Sa, bà S và người thừa kế thế vị của ông H là anh Đ, anh H, chị Hu. Như vậy mỗi kỷ phần được hưởng 47.660.100đ (Bốn mươi bẩy triệu sáu trăm linh một nghìn một trăm đồng). Ông N, bà S tặng cho cụ B kỷ phần mà ông bà được hưởng.
- Xem xét đối với tài sản là nhà đất thì thấy: Hiện nay thửa đất nêu trên cụ B đang quản lý sử dụng. Ông N, bà S, ông Sa cũng như những người thừa kế thế vị của cụ X đều đã có chỗ ở ổn định không có nhu cầu về đất để ở nên cần chấp nhận yêu cầu của cụ B để giao toàn bộ di sản do cụ X để lại gồm diện tích đất và các công trình trên đất bao gồm cả ngôi nhà do vợ chồng ông Sa, bà K xây dựng cho cụ B sở hữu, sử dụng. Cụ B có trách nhiệm thanh toán trả giá trị bằng tiền cho ông Sa và những người thừa kế thế vị của ông H kỷ phần được hưởng, mỗi kỷ phần trị giá 47.660.100đ . Ngoài ra cụ B còn phải thanh toán trả vợ chồng ông Sa, bà K giá trị ngôi nhà do vợ chồng ông Sa bà K xây dựng là 87.783.000 đồng.
[3] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo kỷ phần được hưởng. Cụ B là người cao tuổi, có đơn đề nghị miễn án phí nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Ông Sa mặc dù là người cao tuổi nhưng không có đơn đề nghị nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vàokhoản 5 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39;
khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS 2015; các Điều609, 610, 611, 612, 613, 614,623, 649, 651, 652, 660Bộ luật dân sựBLDS 2015;Điều 33Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về ... án phí và lệ phí Toà án:
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Phạm Thị B.
2. Xác định cụ Phạm Thị B và cụ Phạm Phú X có tài sản chung là diện tích 747,3 m2 đất tại thửa đất số 266 tờ bản đồ số 8 địa chỉ: thôn Đồng B, xã Dân Chủ, huyện Tứ Kỳ được UBND huyện Tứ Kỳ cấp GCNQSDĐ ngày 25/01/2000 đứng tên cụ Phạm Phú X và các tài sản trên đất. Tổng giá trị tài sản chung của cụ B và cụ X là 476.601.000đ (Bốn trăm bẩy mươi sáu triệu sáu trăm linh một nghìn đồng).
Xác định cụ Phạm Thị B có tài sản riêng trong khối tài sản chung với cụ X là 1/2 giá trị đất và các tài sản trên đất tại thửa đất nêu trên trị giá 238.300.500đ (Hai trăm ba mươi tám triệu ba trăm nghìn năm trăm đồng).
3. Về di sản thừa kế và kỷ phần thừa kế:
- Xác định di sản thừa kế của cụ Phạm Phú X để lại là 1/2 quyền sử dụng đối với diện tích 747,3 m2 đất tại thửa đất số 266 tờ bản đồ số 8 và 1/2 giá trị các tài sản trên đất. Tổng giá trị di sản cụ X để lại là 238.300.500đ (Hai trăm ba mươi tám triệu ba trăm nghìn năm trăm đồng).
Di sản của cụ X được chia cho 05 kỷ phần gồm: cụ B, ông N, ông Sa, bà S và người thừa kế thế vị của ông H là anh Đ, anh H, chị Hu, mỗi kỷ phần được hưởng 47.660.100đ. Ông N, bà S tặng cho cụ B kỷ phần mà mình được hưởng nên cụ B được hưởng tổng cộng 142.980.300đ.
4. Về hiện trạng giao đất, các tài sản trên đất và trách nhiệm thanh toán:
- Giao cho cụ Phạm Thị B được sở hữu, sử dụng diện tích 747,3 m2 đất tại thửa đất số 266 tờ bản đồ số 8 địa chỉ: thôn Đồng B, xã Dân C, huyện Tứ Ktỉnh Hải Dương và các tài sản trên đất bao gồm cả ngôi nhà do vợ chồng ông Phạm Phú Sa và bà Phạm Thị K xây dựng được giới hạn bởi các điểm A1A2A3A4A5A6A7A8A9A10A11A12A13A14A15A16 đến A1 (có sơ đồ kèm theo). Tổng trị giá tài sản là564.384.000đ (Năm trăm sáu mươi tư triệu ba trăm tám mươi tư nghìn đồng).
Cụ Phạm Thị B có trách nhiệm liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để được hướng dẫn và cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
- Cụ PhạmThị B có trách nhiệm thanh toán cho: thanh toán trả ông Phạm Phú Sa số tiền 47.660.100đ; thanh toán trả cho anh Phạm Phú Đ, anh Phạm Phú H, chị Phạm Thị H số tiền 47.660.100đ( anh, Đ, anh H, chị Hu mỗi người hưởng 15.886.700đ); thanh toán trả cho vợ chồng ông Phạm Phú Sa, bà Phạm Thị K số tiền 87.783.000đ.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, người phải thi hành án không tự nguyện thi hành những khoản tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm đối với cụ Phạm Thị B.
- Ông Phạm Phú Sa phải chịu 2.383.000đ (Hai triệu ba trăm tám mươi ba nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
- Anh Phạm Phú Đ, anh Phạm Phú H, chị Phạm Thị H phải chịu 2.383.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Mỗi người phải chịu 794.300đ (làm tròn)(Bẩy trăm chín mươi tư nghìn ba trăm đồng) 5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về xác định tài sản chung, tài sản riêng, tranh chấp chia di sản thừa kế số 15/2023/DS-ST
Số hiệu: | 15/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về