Bản án về việc tranh chấp ly hôn số 292/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 292/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ VIỆC TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 3 năm 2022 , tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 476/2020/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 102/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 985/2022/QĐ-ST ngày 18 tháng 02 năm 2022; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Huỳnh Ngọc Hoàng Y, sinh năm 1984; nơi đăng ký thường trú: Số X1X2X3/6, đường Linh Đ, Khu phố X4, phường Linh Đ, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Số X5/3 đường X6, Khu phố X7, phường Bình Trưng T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt. (Có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Ly Tuong N, sinh năm 1981; quốc tịch: Hoa Kỳ; địa chỉ: X8X9, Hoa Kỳ. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo các tài liệu có trong hồ sơ, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y trình bày: Bà và ông Ly Tuong N quen biết do người thân giới thiệu từ năm 2005. Sau đó khoảng 01 năm hai người bắt đầu liên hệ nhiều với nhau qua thư và điện thoại đến khi gia đình ông Ly Tuong N về Việt Nam; hai người tự nguyện tiến tới hôn nhân và đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký kết hôn số X10X11 quyển số X12 ngày X13 tháng X14 năm 2015, do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày X16 tháng X17 năm 2005. Từ sau tháng 12 năm 2005, ông Ly Tuong N trở về Mỹ và hứa sẽ bảo lãnh bà sang Mỹ cùng chung sống, vợ chồng bà vẫn giữ liên lạc với nhau qua diện thoại. Khoảng hơn 01 năm sau, vào năm 2007, vợ chồng bà phát sinh mâu thuẫn dẫn đến cãi vã. Cũng kể từ đó, bà không thể liên hệ với ông Ly Tuong N cho đến nay. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn ông Ly Tuong N.

Về con chung: Bà và ông Ly Tuong N không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Giữa bà và ông Ly Tuong N không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề tài sản.

Đối với bị đơn ông Ly Tuong N: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo thời gian và địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến Cơ quan có thẩm quyền của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, theo địa chỉ của bị đơn do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu ông Ly Tuong N có văn bản gửi Tòa án trình bày ý kiến về việc bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y khởi kiện yêu cầu ly hôn (Theo Công văn ủy thác tư pháp số X19X20/UTTPDS-TAX21 ngày 20 tháng 5 năm 2021). Theo đó, Cơ quan có thẩm quyền của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã tống đạt hồ sơ bằng phương thức chuyển cho người sống chung cùng đương sự (Theo Công văn số 178/BTP-PLQT ngày 24 tháng 01 năm 2022 của Bộ Tư pháp). Đến ngày mở phiên tòa như đã định tại thông báo gửi đương sự, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không nhận được bản tự khai, tài liệu, chứng cứ của bị đơn và bị đơn vắng mặt, không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Để đảm bảo việc xét xử theo đúng thời hạn luật định và bảo đảm quyền lợi của đương sự khác, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

[2] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự trong việc giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm có nêu: Thẩm phán, các thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm, các đương sự trong vụ án đã thực hiện đầy đủ quy định pháp luật về tố tụng dân sự; quan hệ tranh chấp của vụ án đã được xác định đúng, chứng cứ được thu thập hợp lệ; vụ án có yếu tố nước ngoài, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền; thủ tục ủy thác tư pháp đã được tiến hành hợp lệ. Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa đã có văn bản trình bày ý kiến giao nộp cho Tòa án và có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa và không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án giải quyết vụ án theo luật định. Đề xuất về đường lối giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Y. Về con chung, tài sản chung và nợ chung nguyên đơn xác định không có, không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra chứng cứ công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn, giấy chứng nhận kết hôn; căn cứ lời trình bày của nguyên đơn tại bản tự khai, có cơ sở để xác định đây là vụ án tranh chấp về ly hôn. Bị đơn trong vụ án là ông Ly Tuong N, quốc tịch Hoa Kỳ, hiện đang cư trú tại Hoa Kỳ; nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Khoản 3 Điều 35, Khoản 1 Điều 37, điểm c Khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, nguyên đơn đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Ly Tuong N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về thời gian và địa điểm mở phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lí do. Xét, yêu cầu và ý kiến của nguyên đơn đã được thể hiện rõ trong bản khai, sự vắng mặt của các bên đương sự không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ quy định tại Khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Căn cứ đơn khởi kiện, bản tự khai của nguyên đơn; Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký kết hôn số X24X25 quyển số A ngày 30 tháng 9 năm 2005, do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28 tháng 9 năm 2005, có cơ sở để xác định quan hệ về hôn nhân giữa bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y với ông Ly Tuong N được xác lập trên cơ sở tự nguyện là hợp pháp.

Theo trình bày của bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y thì sau khi kết hôn hai người chỉ thực tế chung sống trong một thời gian ngắn, sau đó ông Ly Tuong N trở về Hoa Kỳ sinh sống, làm việc, dự định làm thủ tục bảo lãnh bà Y sang Mỹ cư trú, đoàn tụ gia đình. Trong thời gian xa cách, vợ chồng chỉ liên lạc với nhau qua điện thoại và đã phát sinh nhiều bất đồng dẫn đến mâu thuẫn. Từ năm 2017 đến nay, bà Y không thể liên hệ được với ông Ly Tuong N, bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Ly Tuong N.

Xét thấy, mặc dù giữa bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y và ông Ly Tuong N chỉ phát sinh mâu thuẫn vợ chồng trong quá trình liên hệ với nhau qua điện thoại nhưng hai người không còn thực tế chung sống, không còn liên lạc với nhau nên không còn khả năng hàn gắn, đoàn tụ gia đình, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở để giải quyết cho bà Y được ly hôn với ông Ly Tuong N như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa.

[3] Về con chung: Nguyên đơn trình bày giữa bà và ông Ly Tuong N không có con chung, không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[4] Về quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng: Nguyên đơn trình bày giữa bà và ông Ly Tuong N không có tài sản chung, không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm; lệ phí, chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và lệ phí, chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Khoản 3 Điều 35, Khoản 1 Điều 37, Điểm c Khoản 1 Điều 40, Điều 147, Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 và 3 Điều 228, Điểm a Khoản 5 Điều 477, Khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Áp dụng Khoản 1 Điều 56, Điều 121 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Áp dụng Thông tư liên tịch số 12/2016/TTLT-BTP-BNG-TANDTC ngày 19 tháng 10 năm 2016 của Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao và Tòa án nhân dân tối cao quy định về trình tự, thủ tục tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự;

- Áp dụng Luật Thi hành án dân sự.

I. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y được ly hôn với ông Ly Tuong N.

Giấy chứng nhận kết hôn vào Sổ đăng ký kết hôn số X24X25 quyển số A ngày 30 tháng 9 năm 2005, do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 28 tháng 9 năm 2005 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Nguyên đơn trình bày không có, không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng: Nguyên đơn trình bày giữa hai người không có nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng, không yêu cầu phân chia tài sản chung nên Tòa án không xem xét giải quyết.

II. Án phí dân sự sơ thẩm; lệ phí, chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài: Nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đương sự đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0093387 ngày 29 tháng 12 năm 2020 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, đương sự đã thi hành xong án phí sơ thẩm.

Nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y phải chịu lệ phí ủy thác tư pháp và chi phí thực tế thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định của pháp luật.

III. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc Hoàng Y có quyền kháng cáo để được xem xét lại vụ án theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; Bị đơn ông Ly Tuong N cư trú ở nước ngoài không có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo để được xem xét lại vụ án theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được áp dụng theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về việc tranh chấp ly hôn số 292/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:292/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về