Bản án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 52/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH B

BẢN ÁN 52/2022/HS-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 24/6/2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2022/TLST- HS, ngày 24/5/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2022/QĐXXST- HS, ngày 09 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

- Trần Duy C, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn Ngh, xã Tr, huyện L, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Trần Trọng T và con bà Nguyễn Thị Th; có vợ: Nguyễn Thị Y; Có 03 con (con lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2016); tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện đang tại ngoại tại địa phương (có mặt).

* Bị hại: Chị Nguyễn Thị Huệ L, sinh năm 1985; trú tại: Thôn Đ, thị trấn G, huyện G, tỉnh B (đã chết).

* Người thừa kế theo pháp luật của bị hại:

- Ông Nguyễn Thanh Th, sinh năm 1966 (bố đẻ bị hại).

- Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1968 (mẹ đẻ bị hại).

- Cháu Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm 2004 (con đẻ của bị hại).

- Cháu Nguyễn Trí Việt A, sinh năm 2006 (con đẻ của bị hại).

- Cháu Nguyễn Trí K, sinh năm 2009 (con đẻ của bị hại).

Cháu Việt A, Trí K do ông Nguyễn Thanh Th và bà Hoàng Thị L làm đại diện.

Đều nơi cư trú: Thôn Đ, thị trấn G, huyện G, tỉnh B.

Người đại diện theo uỷ quyền của người thừa kế theo pháp luật của bị hại và người đại diện của người thừa kế theo pháp luật của bị hại:

- Ông Nguyễn Trí Đ, sinh năm 1960; nơi cư trú: Thôn Đ, thị trấn G, huyện G, tỉnh B (vắng).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Duy C có giấy phép lái xe hạng A1, C số 990109991399 do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 06/5/2019 có giá trị đến ngày 06/5/2024. C là lái xe thuê cho chị Nguyễn Thị Huệ L, sinh năm 1985; trú tại: Thôn Đ, thị trấn G, huyện G, tỉnh B. Ngày 15/12/2021, C điều khiển chiếc xe ô tô tải, trọng tải 2,1 tấn, nhãn hiệu HUYNDAI, màu xanh, biển kiểm soát (BKS): 99C-148xx (là xe của chị L). Ngồi trên xe còn có chị L cùng đi lấy hàng hoa tươi. Khi lấy hàng xong C điều khiển xe ô tô trên cùng chị L (chị L ngồi ở ghế phụ của xe) đi trên đường Quốc lộ 17 hướng đi từ huyện G thành phố H để về nhà chị L ở huyện G, tỉnh B. Đến khoảng 00 giờ 45 phút ngày16/12/2021, khi C đang điều khiển xe đến đoạn đường thuộc địa phận thôn T, xã X, huyện T, tỉnh B. Lúc này, Ccảm thấy tự nhiên bị lạnh gáy trong người mệt mỏi. C nhắm mắt lại. Do không chú ý quan sát và không làm chủ được tốc độ nên khi C mở mắt ra thì phần đầu xe ô tô trên (phần khoang lái) đâm vào phần phía sau, đuôi xe ô tô đầu kéo BKS: 15H-003zz kéo theo sơmirơmooc BKS: 15R-035.64 do anh Nguyễn Văn Ngh, sinh năm 1977, ở tổ 9, khu 5, phường H, thành phố H, tỉnh Q lái xe thuê theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn của Công ty cổ phần đầu tư và phát triển hàng hải Bì có địa chỉ tại số 452 Lê Thánh T, phường V, quận Ng, thành phố H đang đỗ ở vỉa hè (tại vị trí dừng đón trả khách của xe buýt) cùng chiều đi với xe ô tô do C điều khiển. Hậu quả: Chị L bị thương tích nặng được đưa đi cấp cứu Trung tâm y tế huyện T, tỉnh B. Đến 02 giờ 30 phút cùng ngày chị L bị tử vong, C bị thương phải đi điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh B và trung tâm y tế huyện L, tỉnh B từ ngày 16/12/2021 đến ngày 27/12/2021 thì được ra viện. Xe ô tô tải, nhãn hiệu HUYNDAI, màu xanh, biển kiểm soát 99C-148xx bị hư hỏng nặng. Còn ô tô đầu kéo BKS: 15H-003zz kéo theo sơmirơmooc BKS: 15R-035.64 bị hư hỏng nhẹ do tai nạn.

Sau khi nhận được tin báo vụ tai nạn, Cơ quan CSĐT Công an huyện T, tỉnh B đã thành lập đoàn khám nghiệm với đầy đủ thành phần để tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi theo quy định của pháp luật:

* Qua khám nghiệm hiện trường cho thấy:

- Hiện trường nơi xảy ra vụ tai nạn tại đường Quốc lộ 17 thuộc địa phận thôn T, xã X, huyện T, tỉnh B. Phía Bắc giáp với cửa hàng xăng dầu Minh Đức, phía Nam giáp với nhà máy gạch tuynel Đại Thịnh, phía Đông là hướng đi huyện G, tỉnh B, phía Tây là hương đi thành phố H. Đường Quốc lộ 17 rộng 14,5m được chia làm 02 chiều đường đi có vạch sơn màu vàng, nét đứt ngăn cách, kích thước rộng bằng nhau là 7,25m. Chiều đường phía Bắc là chiều đường đi hướng từ huyện G, tỉnh B đến thành phố H, chiều đường phía Nam là chiều đường đi hướng ngược lại. Đường được dải nhựa ap - phan bằng phẳng. Vỉa hè phía Nam tức vỉa hè theo chiều đường đi từ thành phố Hi đến huyện G, tỉnh B rộng 4,4m trên vỉa hè này có hệ thống đèn điện chiếu sáng và điểm dừng đón trả khách của xe buýt. Lấy cột trụ phía Tây của cổng Công ty gạch tuynel Đại Thịnh làm mốc. Lấy mép đường phía Nam - tức mép đường theo chiều đi từ thành phố H đến huyện G, tỉnh B làm mép đường chuẩn. Trên hiện trường phát hiện:

- 01 xe ô tô đầu kéo biển số 15H-003zz kéo phía sau là xe sơmiromooc biển số 15R-035.64 chở container hàng, xe đỗ một phần trên vỉa hè, một phần ở đường tại vị trí dừng đón trả khách của xe buýt, đầu hướng Đông tức hướng đi huyện G, tỉnh B, đuôi hướng Tây tức hướng đi thành phố H, xe đang trong tình trạng bật đèn cảnh báo, phần đuôi xe bên trái có gắn cành cây, cách phần đuôi xe bên trái 30m về phía Tây có đặt biển cảnh báo trên mặt đường. Xe có trục trước bên phải xe đầu kéo cách mép đường chuẩn 01m về hướng Bắc (trục này trên vỉa hè); trục sau bên phải xe đầu kéo cách mép đường chuẩn 0,4m về hướng Bắc (trục này trên vỉa hè). Trục trước và sau bên phải xe sơmiromooc nằm trên mép đường chuẩn.

- 01 xe ô tô tải biển số 99C-148xx ở phía sau (phía Tây) so với xe ô tô đầu kéo, kéo theo sơmiromooc trên đỗ cùng chiều hướng với xe trên. Trục trước bên phải của xe cách mép đường chuẩn 1,5m về phía Nam và cách trục sau bên phải xe sơmiromooc là 3,6m, trục sau bên phải của xe cách mép đường chuẩn 1,3m về phía Nam (hai trục này ở trên đường Quốc lộ 17).

- Ngay tại vị trí xe ô tô tải trên đỗ có nhiều mảnh vỡ kính diện đo được là (6,9x1,8)m, tập trung nhiều ở đầu xe này. Ngoài ra không phát hiện dấu vết, đồ vật, tài liệu nào khác.

* Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện T qua khám nghiệm phương tiện tai nạn cho thấy:

- Tiến hành khám nghiệm xe ô tô đầu kéo BKS:15H-003zz kéo theo sơmirơmooc BKS: 15R-035.64 phát hiện:

+ Mặt sau thùng container có các dấu vết: Dấu vết thứ nhất: Dấu vết trượt xước bám dính chất màu xanh bạc kích thước (45x3)cm tại vị trí mặt sau cạnh bên trái, điểm thấp nhất cách mặt đỗ xe 198cm, điểm cao nhất cách mặt đỗ xe 243cm. Dấu vết thứ hai: Xước kích thước (23x3)cm bề mặt bám dính chất màu trắng dạng mảnh vụn thủy tinh vỡ tại vị trí mặt sau cạnh bên trái xe, điểm thấp nhất cách mặt đỗ xe 161cm, điểm cao nhất cách đất 184cm. Dấu vết thứ ba: Dấu vết trượt bám chất màu xanh và màu bạc kích thước (72x25)cm tại vị trí cách mặt sau cánh cửa bên trái và một phần đoạn thanh chốt dọc trên cánh cửa này, điểm thấp nhất cách mặt đỗ xe là 188cm, điểm cao nhất cách mặt đỗ xe là 228,8cm. Đầu bên phải dấu vết cách mặt ngoài bên phải thùng 78cm. Mặt sàn sơmiromooc ngay sau và bên dưới thùng container này có nhiều mảnh vụ thủy tinh.

+ Mặt sau cạnh trên, cạnh bên trái, cạnh dưới sàn sơmiromooc có dấu vết bám chất màu xanh, kích thước trên cách cạnh lần lượt là (78x0,7)cm, (23x0,8)cm và (70x0,6)cm dấu vết điểm thấp nhất cách mặt đỗ xe là 113,5cm, điểm cao nhất cách mặt đỗ xe 138cm.

+ Đèn hậu và khung kim loại phía sau đèn này có dấu vết gập về sau lên trên, mặt sau của khung kim loại này có bám rải rác chất màu xanh diện (39x26)cm.

+ Phần đầu bên trái rào chắn đuôi sơmiromooc có dấu vết cong gập về sau sang phải, đoạn rào chắn có dấu vết này (60x13,7)cm cách mặt đỗ xe 65,5cm. Mặt sau khung chắn tại vị trí này có bám chất màu xanh, màu bạc kích thước (56x8)cm.

+ Tấm che bánh kép bên trái trên trục phía sau có dấu vết rồn đẩy ép sát vào bánh đơn phía ngoài.

+ Hệ thông điều khiển, hệ thông phanh, đèn, còi, gạt nước hoạt động bình thường, xe đầy đủ gương, không gương nào bị hỏng, các lốp còn hơi.

+ Xem xét mảnh vỏ đầu xe giữa kính chắn gió trước và mặt ca lăng có dấu vết rách thủng kích thước (27x14)cm dấu vết cách mép bên phải 56cm. Bên phải dấu vết này mặt vỏ có dấu vết xước diện (52x21)cm dạng hình chữ L nằm ngang bề mặt dấu vết có bám dính chất màu vàng.

+ Lốp xe bánh trước, bên phải tại mặt lốp phía ngoài có dấu vết trượt diện (54x6,5)cm vị trí dấu vết sát với mép mặt lăn của lốp tương ứng phía trên dãy chữ 6,50R16LT.

- Kiểm tra kỹ thuật an toàn phương tiện: Do xe bị hư hỏng nặng phần đầu xe nên không kiểm tra được hệ thống kỹ thuật an toàn của xe.

* Tiến hành khám nghiệm tử thi chị Nguyễn Thị Huệ L cho thấy:

Phát hiện: Mặt trước vai bên trái cách đường giữa 09cm đến mặt trước ngoài 1/3 trên cánh tay trái có diện xây xát da bầm tụ máu diện (11x19)cm. Thành ngực vững, vùng ngực bên trái đến vùng bụng trái và vùng mặt ngoài hông bên trái có nhiều vết hằn, xây xát da, bầm tụ máu trên diện (51x32)cm. Tay phải không phát hiện tổn thương. Mặt sau trong khuỷu tay trái có diện xây xát da, bầm tụ máu diện (8x6)cm. Mặt sau cổ tay trái đến mu bàn tay có diện xây xát da bầm tụ máu diện (15x7)cm. Mặt ngoài hông bên phải có một số vết hằn không liên tục màu tím đỏ. Mặt trước ngoài 1/3 giữa đùi phải có diện bầm tụ máu kích thước (5x4)cm. Mặt trước trong 1/3 trên đùi trái có vết hằn màu đỏ không liên tục trên diện (8x5)cm. Mặt trong 1/3 dưới cẳng chân trái có một số vết rách da nông không liên tục trên diện (7x4)cm. Toàn bộ vùng lưng, mông có nhiều vết hằn và xây xát da không liên tục, bên trái nhiều hơn bên phải.

- Giải phẫu tử thi: Giải phẫu vùng bụng ngực thấy tổ chức dưới da và cơ vùng ngực màu thuần nhất, không phát hiện tổn thương. Bầm tụ máu cơ vùng bụng dưới diện (15x17)cm, khoang nồng ngực bên phải có chứa nhiều máu loãng, hai phổi sẹp, bầm tụ máu vùng rốn phổi hai bên, rách vòm hoành bên phải kích thước (10x8)cm, một phần gan bên phải thoát qua vòm hoành lên khoang nồng ngực bên phải. Dập vỡ phức tạp gan bên phải ở cả mặt trên và mặt dưới. Bao tim còn nguyên vẹn, trong các buồng tim có chữa it máu loãng, các van tim mềm mại không phát hiện tổn thương. Trong khoang ổ bụng có chứa nhiều máu loãng. Tụ máu vùng cuống gan và các màng treo ruột. Vỡ lách diện (7x4)cm. Tụ máu toàn bộ mặt sau phúc mạc ( BL: 79-93).

Ngày 16/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 04/TCGĐ trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B giám định nguyên nhân chết của chị Nguyễn Thị Huệ L.Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 03/KLPY - PC09 ngày 21/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B kết luận: Nguyên nhân chết của chị Nguyễn Thị Huệ L là chấn thương bụng kín gây dập vỡ tạng, mất máu dẫn đến suy tuần hoàn, suy hô hấp.

Cùng ngày 16/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 05/TCGĐ trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B giám định cơ chế hình thành dấu vết va chạm, vị trí va chạm giữa 02 phương tiện.

Tại Bản kết luận giám định số 258/KLGĐ(CH)-PC09, đề ngày 28/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B kết luận:

1. Dấu vết hằn tại mặt sau tấm che bánh sau bên trái trên trục sau cùng của sơ-mi-rơ-mooc BKS: 15R-035.64 hình thành do va chạm với mặt ốp biển số trước và mặt cản trước trên xe ô tô BKS: 99C-148xx tạo nên dấu vết tróc nhựa và bám dính chất màu nâu, vàng tại vị trí này là phù hợp. Chiều hướng va chạm từ sau ra trước sơ-mi-rơ-mooc BKS: 15R-035.64, từ trước về sau xe ô tô BKS: 99C-148xx.

2. Dấu vết lõm, tróc sơn tại mặt trên nóc khoang lái trên xe ô tô BKS: 99C- 148xx hình thành do va chạm với cạnh sau bên trái thùng container trên sơ-mi-rơ- mooc BKS: 15R-035.64, tạo nên dấu vết bám chất màu xanh, bạc tại vị trí này là phù hợp. Chiều hướng va chạm từ sau ra trước sơ-mi-rơ-mooc BKS: 15R-035.64, từ trước về sau xe ô tô biển số 99C-148xx.

3. Không phát hiện dấu vết va chạm giữa xe ô tô BKS: 99C-148xx với xe ô tô BKS: 15H-003zz.

Ngày 14/01/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã ra quyết định trưng cầu giám định số 22/TCGĐ Trưng cầu Trung tâm giám định pháp y tỉnh B giám định tỷ lệ phần trăm và cơ chế hình thành thương tích của anh Trần Duy C. Cùng ngày 14/01/2022, C có đơn tự nguyện từ chối giám định thương tích .

Ngày 22/12/2021, ông Nguyễn Trí Đ, sinh năm 1960; trú tại: Thôn Đ, thị trấn G, huyện G, tỉnh B được người thừa kế theo pháp luật của chị L ủy quyền làm đại diện (là chú ruột của chồng chị L) đã có đơn tự nguyện từ chối định giá tài sản phần hư hỏng đối với chiếc xe ô tô BKS: 99C-148xx.

Ngày 24/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã tiến hành làm việc với đại diện Trung tâm dịch vụ ô tô ở thị trấn H, huyện T, tỉnh B xác định tổng số tiền chi phí sửa chữa phần bị hư hỏng của xe ô tô BKS: 99C-148xx là 92.250.000 đồng.

* Về việc thu giữ và xử lý vật chứng:

- Về thu giữ:

Ngày 16/12/2021, Cơ quan điều tra Công an huyện T đã thu giữ 01 chiếc xe ô tô đầu kéo BKS: 15H-003zz kéo theo sơmirơmooc BKS: 15R-035.64 cùng toàn bộ giấy tờ liên quan đến chiếc xe và 01 giấy phép lái xe hạng FC số 220974000194 mang tên Nguyễn Anh Ngh; 01 xe ô tô tải, trọng tải 2,1 tấn, nhãn hiệu HUYNDAI, màu xanh, BKS: 99C-148xx và 01 giấy phép lái xe hạng A1, C số 990109991399 mang tên Trần Duy C.

- Về xử lý vật chứng:

+ Đối với chiếc xe ô tô đầu kéo BKS: 15H-003zz kéo theo sơmirơmooc BKS:

15R-035.64. Quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển hàng hải Bình Minh là ông Nguyễn Quang M đã xuất trình đầy đủ giấy tờ liên quan đến chiếc xe. Ngày 16/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã trả lại chiếc xe ô tô đầu kéo trên cho ông Nguyễn Quang M và Giấy phép lái xe hạng FC số 220974000194 mang tên Nguyễn Anh Ngh cho anh Ngh.

+ Đối với chiếc xe ô tô tải, trọng tải 2,1 tấn, nhãn hiệu HUYNDAI, màu xanh, BKS: 99C-148xx. Quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của gia đình chị L là ông Nguyễn Trí Đ đã xuất trình đầy đủ giấy tờ liên quan đến chiếc xe. Ngày 26/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã trả lại chiếc xe ô tô trên cho ông Đáo.

* Về trách nhiệm dân sự:

Trần Duy C đã tự nguyện bồi thường cho gia đình chị Nguyễn Thị Huệ L số tiền 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng); Đại diện phía Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển hàng hải Bình Minh do anh M là đại diện tự nguyện hỗ trợ gia đình chị L số tiền 20.000.000 đồng; anh Nguyễn Văn Ngh tự nguyện hỗ trợ gia đình chị Liên số tiền là 20.000.000 đồng. Ông Nguyễn Trí Đ đại diện gia đình chị L đã nhận đủ số tiền trên và không đề nghị bồi thường gì thêm. Đối với phần hư hỏng của hai phương tiện các bên tự nguyện thỏa thuận tự sửa chữa không đề nghị gì đối với Trần Duy C.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện T, tỉnh B bị cáo Trần Duy C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số: 46/CT- VKSTT, ngày 20/5/2022 của VKSND huyện T đã truy tố đối với bị cáo Trần Duy C về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên toà đã phân tích động cơ, mục đích, nhân thân, mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã giữ nguyên nội dung như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị HĐXX tuyên bố với bị cáo Trần Duy C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”;

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt Trần Duy C từ 12 tháng đến 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 24 đến 36 tháng.

Không áp dụng hình phạt bổ sung cấm hành nghề đối với bị cáo. Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe số: A1, C số 990109991399 do Sở Giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 06/5/2019 ghi họ tên Trần Duy C.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Bị cáo nhất trí với bản luận tội của VKS và không có ý kiến gì. Bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa hôm nay mặc dù người đại điện theo uỷ quyền của người thừa kế theo pháp luật của bị hại là ông Nguyễn Trí Đ vắng mặt. Nhưng ông Đ đã được Tòa án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ; ông Đ có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy sự vắng mặt của ông Đ không ảnh hưởng gì đến nội dung vụ án nên HĐXX vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ là phù hợp quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Tại phiên toà, bị cáo Trần Duy C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Trần Duy C có giấy phép lái xe hạng A1, C số 990109991399 do Sở giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 06/5/2019 có giá trị đến ngày 06/5/2024. Khoảng 00 giờ 45 phút ngày16/12/2021, Cường điều khiển chiếc xe ô tô tải, trọng tải 2,1 tấn, nhãn hiệu HUYNDAI, màu xanh, BKS: 99C-148xx, ngồi trên xe (ghế phụ) còn có chị Nguyễn Thị Huệ L lưu thông trên đường Quốc lộ 17 hướng từ huyện G, thành phố H đến huyện G, tỉnh B. Khi đến đoạn đường thuộc thôn Th, xã X, huyện T, tỉnh B, do không chú ý quan sát nên xe ô tô do bị cáo C điều khiển đã đâm vào phần phía sau, đuôi xe ô tô đầu kéo BKS: 15H-003zz kéo theo sơmirơmooc BKS: 15R-035.64 đang đỗ ở vỉa hè tại vị trí dừng đón trả khách của xe buýt cùng chiều đi với xe ô tô do bị cáo Cg điều khiển. Hậu quả: Chị L bị thương tích nặng và tử vong hồi 2 giờ 30 phút cùng ngày. Xét hành vi trên của bị cáo đã vi phạm khoản 23 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ và đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Từ nhận nhận định trên, HĐXX xác định Cáo trạng của VKSND huyện T đã truy tố đối với bị cáo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Đối với bị cáo còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề từ 01 năm đến 05 năm theo khoản 5 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Xét thấy, nghề lái xe là nghề chính và thu nhập chính của bị cáo. Để đảm bảo cuộc sống của bị cáo và gia đình bị cáo nên HĐXX không áp dụng hình phạt cấm hành nghề lái xe đối với bị cáo là phù hợp quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm tới khách thể của tội phạm là sự xâm phạm trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe và tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ. Chỉ vì thiếu quan sát bị cáo đã gây tai nạn làm chết một người và làm hư hỏng tài sản chiếc xe ô tô của chị L. Xét thấy, hành vi của bị cáo làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang, bức xúc trong quần chúng nhân dân; chính vì vậy đối với bị cáo cần xét xử nghiêm bằng chế tài hình sự mới có tác dụng phòng ngừa chung và giáo dục riêng bị cáo.

Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tiền, tiền sự nên xác định bị cáo có nhân thân tốt.

Xét về các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại CQĐT và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã bồi thường đầy đủ cho gia đình bị hại; người đại diện theo pháp luật của bị hại đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Ngoài ra bị cáo có thời gian tham gia quân ngũ và được tặng thưởng 02 Bằng khen; khi trở về địa phương bị cáo Bí thư chi Đoàn thôn Ngh, xã Tr và được tặng 02 giấy khen nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên không nhất cần thiết phải ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội và cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và thấy được sự khoan hồng của phát luật.

Liên quan trong vụ án: Đối với anh Nguyễn Văn Ngh có hành vi điều khiển xe ô tô đầu kéo nhãn hiệu FAW, màu trắng, BKS: 15H-003zz kéo theo sơmirơmooc BKS: 15R-035.64 đỗ xe trên vỉa hè tại vị trí điểm dừng đón trả khách của xe buýt thuộc địa phận thôn Th, xã X, huyện T, tỉnh Bắc Ninh đã vi phạm vào điểm đ khoản 3 Điều 5 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ qui định “….đỗ xe tại vị trí: …… điểm dừng đón, trả khách của xe buýt; …..”. Ngày 22/02/2022, Công an huyện T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 54 với mức phạt tiền là 900.000 đồng; xét thấy, Cơ quan Điều tra đã xử phạt hành chính đối với anh Ngh về hành vi trên là phù hợp quy định của pháp luật nên HĐXX không xem xét.

[3]. Về vật chứng của vụ án: Đối với chiếc xe ô tô đầu kéo BKS: 15H-003zz kéo theo sơmirơmooc BKS:15R-035.64 và Giấy phép lái xe hạng FC số 220974000194 mang tên Nguyễn Anh Nghdo Cơ quan Điều tra thu giữ của anh Ngh; xét thấy, chiếc xe ô tô đầu kéo và Giấy phép lái xe trên không có dấu hiệu của tội phạm; quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của Công ty Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển hàng hải Bình Minh là ông Nguyễn Quang M đã xuất trình đầy đủ giấy tờ hợp pháp iên quan đến chiếc xe. Do vây, ngày 16/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã trả lại chiếc xe ô tô đầu kéo trên cho ông Nguyễn Quang M và trả Giấy phép lái xe hạng FC số 220974000194 mang tên Nguyễn Anh Ngh cho anh Ngh là phù hợp nên HĐXX không xem xét.

Đối với chiếc xe ô tô tải, trọng tải 2,1 tấn, nhãn hiệu HUYNDAI, màu xanh, BKS: 99C-148xx; quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của người thừa kế theo pháp luật của chị L là ông Nguyễn Trí Đ đã xuất trình đầy đủ giấy tờ hợp pháp liên quan đến chiếc xe. Do vậy, ngày 26/12/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện T đã trả lại chiếc xe ô tô trên cho ông Đáo là phù hợp quy định pháp luật nên HĐXX không xem xét.

Đối với 01 giấy phép lái xe số: A1, C số 990109991399 do Sở Giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 06/5/2019 ghi họ tên Trần Duy C là tài liệu đang được lưu trữ trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, do bị cáo không bị áp hình phạt bổ sung là cấm hành nghề lái xe nên HĐXX cần tuyên trả cho bị cáo là phù hợp quy định của pháp luật.

[4.] Về trách nhiệm dân sự: Do người đại diện theo uỷ quyền của người thừa kế theo pháp luật của bị hại không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Trần Duy C phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

* Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Duy C 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 30 (ba mươi ) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo C cho Ủy ban nhân dân xã Tr, huyện L, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trả lại bị cáo 01 giấy phép lái xe số: A1, C số 990109991399 do Sở Giao thông vận tải tỉnh B cấp ngày 06/5/2019 ghi họ tên Trần Duy C.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Trần Duy C phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

` Bị cáo C có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Ông Đ vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 52/2022/HS-ST

Số hiệu:52/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về