TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ XUYÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 10/2024/HS-ST NGÀY 24/01/2024 VỀ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN, TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 24 tháng 01 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện P, Thành phố H xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 79/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 11 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2023/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thành Tr; Sinh năm 1988; HKTT: TK Mỹ Lâm, thị trấn X, huyện X, TP H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Nguyễn Văn S và con bà Nguyễn Thị O; Có 02 anh chị em ruột, bị caó là con cả. Có vợ là Lê Thị L (Đã ly hôn) và có 02 con (lớn 12 tuổi, nhỏ 9 tuổi); Tiền án: Có 02 Tiền án. Ngày 15/11/2017, bị TAND huyện Thường Tín xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. chấp hành xong ngày 23/11/2018. Ngày 09/8/2019 bị TAND huyện P xử 26 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 17/6/2021. Tiền sự: Chưa. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/3/2023 đến nay tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố H.
2. Tạ H H; Sinh năm 1992; HKTT và nơi cư trú thôn X, xã L, huyện T, TP H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Tạ Văn Ng và con bà Nguyễn Thị Th. Có 03 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ hai.
Tiền án: Có 03 Tiền án; Ngày 30/6/2016, bị TAND huyện Thường Tín xử 26 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”; chấp hành xong ngày 09/2/2018. Ngày 16/10/2018, bị TAND huyện Thường Tín xử 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 26/02/2019. Ngày 24/7/2020, bị TAND huyện Thường Tín xử 40 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/4/2023 đến nay tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố H.
3. Tạ Văn H; Sinh năm 1993; HKTT và nơi cư trú thôn X, xã L, huyện T, TP H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Tạ Văn G và con bà Nguyễn Thị L. Có 02 anh chị em ruột, bị cáo là con út. Có vợ là Vũ Thị T Tr và có hai con (lớn 5 tuổi, nhỏ 03 tuổi). Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 05/02/2013, bị TAND huyện Thường Tín xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm 08 tháng kể từ ngày tuyên án. Đã chấp hành xong ngày 15/3/2017. Ngày 16/10/2018, bị Toà án nhân dân huyện Thường Tín xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong ngày 08/9/2019. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/4/2023 đến nay tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố H.
4. Nguyễn Nam S; Sinh năm 1981; HKTT: Thôn Vĩnh Mộ, xã Nguyễn Trãi, huyện Thường Tín, TP H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Nguyễn Minh H và con bà Nguyễn Thị Q; Có 02 anh chị em ruột: Bị cáo là con út. Tiền án: Không; tiền sự: Năm 2020, bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong ngày 05/10/2022. Nhân thân: Năm 2013, bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 07/8/2023 cho đến nay tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố H.
5. Phùng Văn T; Sinh năm 1995; HKTT: Thôn Văn Minh, xã Nam Tiến, huyện P, TP H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Phùng Văn Th và con bà Nguyễn Thị Th; Có 02 anh chị em ruột, bị cáo là con út. Tiền án: Ngày 29/5/2020, bị TAND huyện Thường Tín xử 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”,chấp hành xong ngày 28/01/2022); tiền sự: Không. Nhân thân: Năm 2013, bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc. Hiện bị Công an tỉnh Quảng Ninh bắt giữ vì tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, tại trại tam giam Công an tỉnh Quảng Ninh. Ngày 01/12/2023, bị TAND thành phố Hạ Long xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”
6. Trịnh Thị H; Sinh năm 1980; HKTT: Thôn An Duyên, xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, TP H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 09/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Trịnh Đức Vượng và con bà Dương Thị K; Có 03 anh chị em ruột. Bị cáo là con thứ hai. Có chồng Lê Văn P và có 03 con (lớn 23 tuổi, con nhỏ 12 tuổi). Tiền án, tiền sự: Không
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Các bị cáo Nguyễn Thành Tr, Tạ Văn H, Tạ H H, Nguyễn Nam S, và đối tượng C (chưa rõ nhân thân) là những người nghiện ma túy, rủ nhau đi trộm cắp tài sản dây cáp điện để bán lấy tiền tiêu xài. Do dây cáp điện là dây cáp đèn chiếu sáng ban đêm có điện không cắt được nên các bị cáo chọn tời điểm là ban ngày đến cắt các dây điện ở chân cột đèn trước, đợi đến đêm sẽ đến rút dây đem bán và thống nhất, phân công như sau: H, S sử dụng phương tiện là 02 xe mô tô của chính H và S để di chuyển, kìm cắt, dao, thuổng, quần nỉ… để cắt và đào dây. Từ tháng 2 đến tháng 3/2023, nhóm của H đã thực hiện 4 vụ là trộm cắp dây cáp điện ngầm đèn chiếu sáng. Cụ thể:
Vụ thứ 1: Khoảng 01 giờ, ngày 3/2/2023 S, H, H đã cắt dây điện tại các chân cột đèn số số 38, 39, 40, 41, với tổng chiều dài là 90m thuộc khu vực Trạm bơm thôn Khai Th, xã Khai Th, P, lấy được 04 cuộn và mang đến nhà Trịnh Thị H, để bán với giá 140.000 đ một kg đồng (quy đổi 1kg dây cáp điện tính bằng 0,5 kg đồng. H, H, S bê 04 dây cáp điện lên cân được khoảng 100kg tương đương 50kg đồng, thành tiền là 7.000.000đ. S, H, H chia nhau số tiền trên để tiêu sài cá nhân. Sau khi sự việc xảy ra anh Chu Văn H là nhân viên của Công ty cổ phần chiếu sáng và thiết bị đô thị Hồ Gươm đi kiểm tra hệ thống điện thì phát hiện bị cắt trộm.
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện P định giá tài sản Dây điện, loại dây cáp ngầm CU/XLPE/PVC 4x16mm, dài 90 m có giá trị là:
26.520.000 đồng.
Vụ thứ 2: Rạng sáng ngày 7/2/2023, S, H, H cắt trộm tiếp dây cáp điện tại các cột đèn 41, 42, 43 với tổng chiều dài là 60m, thuộc khu vực Trạm bơm thuộc thôn Khai Th, xã Khai Th, rồi cuốn thành 02 cuộn dây rồi đem bán cho Trịnh Thị H với giá 3.000.000 đồng, chia nhau mỗi người 1.000.000 đồng và tiêu sài cá nhân hết. Sau khi sự việc xảy ra vẫn anh Chu Văn H là người phát hiện bị cắt trộm dây điện và đến cơ quan công an trình báo.
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện P định giá tài sản Dây điện, loại dây cáp ngầm CU/XLPE/PVC 4x16mm, dài 60 m có giá trị là 17.680.000 đồng Vụ thứ 3: Khoảng 23 giờ ngày 21/02/2023 S, H, H, Nguyễn Thành Tr và nam thanh niên tên C, lại rủ nhau đi cắt trộm dây cáp điện trên đê sông H3 thuộc địa bàn huyện P. Các bị cáo chuẩn bị thuổng sắt, dao, kìm cắt cáp điện, đèn pin để đi thực hiện. S điều khiển xe máy Honda Wave, màu đen, không biển kiểm sát chở Tr và H; C điều khiển xe máy Yamaha Novou chở H đi ra khu vực đê sông H3, khi đến đoạn đê Quai thuộc thôn Quang Lãng, xã Quang Lãng, P, các bị cáo dừng xe, đi đến các chân cột số 17,18,19 để cắt và rút dây điện được một khoảng dây và cuộn lại để ở rệ đường, trong lúc đang rút khoảng còn lại thì anh Chu Văn H1 đi tuần tra đi đến, Cả bọn vứt lại cuộn dây cáp, chạy ra lên xe máy tẩu thoát về hướng Hà Nam. Anh H đi kiểm tra phát hiện dây cáp điện ngầm tại chân các cột từ 17 - 19 đã bị cắt với tổng chiều dài là 60m.
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện P định giá tài sản là: Dây điện, loại dây cáp ngầm CU/XLPE/PVC 4x10mm, dài khoảng 60 m có giá trị 10.838.000 đồng.
Vụ thứ 4: Khoảng 2h00 sáng ngày 28/3/2023, H, H và Trg di chuyển bằng xe mô tô nhãn hiệu Airblade lấy trộm của anh Lê Văn H (đã vứt bỏ BKS) đi đến khu vực đê sông H3 thuộc thôn Vĩnh Tr, xã Khai Th, P, H, đi đến chân cột đèn số 20, 21 tiếp tục cắt trộm được 04 cuộn dây cáp điện. Khi chuẩn bị tẩu thoát thì bị Cơ quan Công an bắt quả tang Tr cùng tang vật còn H và H3 chạy thoát.
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện P định giá tài sản 04 (Bốn) đoạn dây cáp điện màu đen, loại (4x25)mm, lõi đồng có tổng chiều dài là: 28,9m. có giá trị là 12.947.000 đồng.
Ngoài các vụ trộm cắp tài sản nêu trên, nhóm của H đã thực hiện 02 vụ trộm cắp xe máy cụ thể như sau:
Vụ thứ 1: Ngày 17/3/2023, S điều khiển xe máy Honda Wave, màu đen chở H và H đi lòng vòng quanh khu vực địa bàn huyện P để tìm ai sơ hở trong quản lý tài sản sẽ Trộm cắp. Khi đi đến khu vực đê sông H3 thuộc thôn Vĩnh Hạ, Khai Th, thì phát hiện chiếc xe máy Honda Wave, màu cam, BKS: 30Y6-xxxx của anh Nguyễn Quang L, để tại bãi vật liệu xây dựng không có người trông coi. S liền điều khiển xe máy lại gần và đứng cảnh giới, còn H và H3 tiến đến lấy chiếc xe máy của anh L dắt lên đường đê. Sau đó, H điều khiển xe máy chở S đẩy H3 đi chiếc xe máy vừa trộm cắp được, về nhà Phùng Văn T, ở thôn Văn Minh, xã Nam Tiến, P và bán cho T với giá 3.000.000 đ. Đối với T, dù có biết chiếc xe là tài sản do trộm cắp mà có nhưng vì ham rẻ T vẫn mua làm phương tiện đi lại. T đã giao nộp chiếc xe cho Cơ quan Cảnh sát điều tra.
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện P định giá tài sản 01 xe máy Honda Wave, màu cam, số khung Y204071, số máy 1405023 có giá trị là 8.000.000 đồng.
Vụ thứ 2: Ngày 25/3/2023, S điều khiển xe máy Honda Wave, màu đen, chở H đi đến địa phận thôn Kiều Đông, xã Đại Xuyên, P, phát hiện chiếc xe máy Honda Blade, BKS: 29Y7-xxxxx màu đỏ đen, của anh Lê Văn H4, ở thôn Đa Chất, xã Đại Xuyên, P dựng ở lề đường không có người trông coi. Cả hai lại gần chiếc xe, H nhảy xuống đi bộ, tới nơi thấy xe vẫn đang cắm chìa khóa thì H ngồi lên chiếc Honda Blade mở khóa, chạy ra đường mới về hướng H. Sau đó, H tháo biển số vứt đi và sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản.
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện P định giá tài sản 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda Blade, màu đỏ đen, không đeo biển số, số khung: 3G04EY115364; số máy: JA36E-0219466, có giá trị là: 10.000.000 đồng.
Quá trình điều tra Nguyễn Nam S, Tạ H H, Tạ Văn H bỏ trốn, đến ngày 25/4/2023, H, H3 bị bắt giữ. Ngày 07/8/2023, S ra đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội Ngày 20/9/2023, Trịnh Thị H cũng đến Cơ quan Công an huyện P để đầu thú. Riêng, số dây điện H5 bán cho một người không quen biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không thu hồi lại được.
Cơ quan điều tra thu giữ tại những đồ vật, phương tiện sau:
+ 01 con dao dài 39 cm, 01 kìm cắt cáp bằng kim loại dài 60cm. 01 đôi dép nhãn hiệu “ADIDAS”. 01 đôi dép lê hiệu “COQUI”; 01đoạn dây cáp điện màu đen, loại dây cáp ngầm CU/XLPE/PVC (4x10)mm, lõi đồng; kích thước là 28,8m; 04 đoạn dây cáp điện màu đen, loại (4x25) mm, lõi đồng; có các kích thước 10,5m;
8,6m; 5m; 4,8m; 01 đèn pin cũ; 01 quần nỉ cũ; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave cũ, màu cam, số khung: Y204071; số máy: 1405023; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Blade, màu đỏ, không BKS; 01xe máy Honda Wave cũ, BKS: 29Y5-xxxx xe máy là của Nguyễn Nam S.
Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh Nguyễn Quang L là chủ sở hữu chiếc xe máy nhãn hiệu Wave màu cam, số khung Y204071, số máy 1405023 và trao trả cho anh Lê Văn H chiếc xe Honda Blade, màu đỏ, số khung RLHJA3G04EY115364, số máy JA36E-0219466; Trả cho Công ty cổ phần điện chiếu sáng 05 đoạn dây cáp điện màu đen loại 4x25mm; 4x10mm và 4x16mm.
Về trách nhiệm dân sự:
Người bị hại là anh Nguyễn Quang L và anh Lê Văn H4 đã nhận lại tài sản nên không đề nghị về bồi thường dân sự.
Anh Chu Văn H là người đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần chiếu sáng và thiết bị đô thị Hồ Gươm không đề nghị bồi thường về dân sự.
Tại phiên tòa:
Các bị cáo Tạ H H, Tạ Văn H, Nguyễn Nam S, Nguyên Thành Tr thành khẩn thừa nhận: Bị cáo bị truy tố, xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng, không oan sai. Do không nghề nghiệp, cần tiền tiêu xài nên đã rủ nhau thực hiện 04 vụ cắt trộm dây cáp điện là tài sản của Doanh nghiệp tại khu vực xã Khai Th, huyện P và 02 vụ Trộm cắp tài sản là xe máy của các anh Nguyễn Quang L, ở thôn Tầm Thượng, xã Quang Lãng; anh Lê Văn H4, ở thôn Đa Chất, xã Đại Xuyên. Sau đó, đem các tài sản trộm cắp được bán cho Trịnh Thị H5, Phùng Văn T để lấy tiền chia nhau tiêu xài cá nhân hoặc sử dụng. Tổng giá trị tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt trị, giá 85.985.000 đồng. Các bị cáo thành khẩn khai báo đề nghị được xem xét giảm nhẹ hình phạt cho cải tạo tại địa phương.
Bị cáo Trịnh Thị H5 khai nhận: Bị cáo biết việc các bị cáo Nguyễn Thành Tr, Tạ Văn H, Tạ H H3, Nguyễn Nam S, đến bán dây cáp điện là tài sản do trộm cắp mà có, dù không có hứa hẹn trước, nhưng H5 vẫn mua vì ham rẻ, bị cáo vẫn mua với mục đích bán lại để kiếm lời. Sau khi mua được số dây điện với giá 140.000 đồng kg x 70 kg = 9.800.000.000 đồng, bị cáo đã bán với giá 150.000 đồng/kg và được lợi 700.000 đồng.
Bị cáo Phùng Văn T khai nhận: Dù biết chiếc xe Honda Wave, màu cam, BKS 30Y6-xxxx của anh Nguyễn Quang L mà các bị cáo S, H mang đến bán cho T là tài sản do trộm cắp mà có nhưng T vẫn mua vì ham rẻ, bị cáo vẫn mua với mục đích làm phương tiện đi lại. Phùng Văn T thành khẩn khai báo đề nghị được xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Phía đại diện nguyên đơn dân sự ông Chu Văn H đề nghị, do nhiều lần bị mất trộm tài sản, phía doanh nghiệp đã tích cực phối hợp với cơ quan Công an để ngăn chặn hành vi phạm tội của các bị cáo, thiệt hại là tương đối lớn, nên đề nghị Tòa xử lý nghiêm các bị cáo và không yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự.
Người bị hại là các anh Nguyễn Quang L và anh Lê Văn H đề nghị: Về hình phạt, đề nghị Tòa xử các bị cáo theo pháp luật, về TNDS không có đề nghị gì.
Tại Cáo trạng số 75/CT-VKS ngày 28/11/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố các bị cáo Tạ H H3, Tạ Văn H, Nguyễn Nam S, Nguyên Thành Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Truy tố các bị cáo Phùng Văn T, Trịnh Thị H5 về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.
Phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát huyện P giữ quyền công tố luận tội và tranh luận giữ nguyên quan điểm truy tố tội danh, khung hình phạt và đề nghị áp dụng khoản 2 của điều 173 và các quy định khác của BLHS xử phạt : Tạ H H từ 04 – 05 năm tù; Tạ Văn H từ 42 – 48 tháng tù; Nguyễn Thành Tr từ 36 – 42 tháng tù, Nguyễn Nam S, từ 30 – 36 tháng tù. đề nghị áp dụng khoản 1 của điều 323 và các quy định khác của BLHS xử phạt Phùng Văn T từ 09 – 12 tháng tù, Trịnh Thị H từ 12 – 15 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 24 – 30 tháng. Ngoài ra còn đề nghị xử lý vật chứng của vụ án và buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Tòa khoan hồng, xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp lệ, đủ cơ sở kết luận: Đây là vụ án “Trộm cắp tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” xảy ra tại các xã Khai Th, Quang Lãng, Đại Xuyên, huyện P, TP H, do các bị cáo Tạ H H, Tạ Văn H, Nguyễn Nam S, Nguyên Thành Tr, Phùng Văn T, Trịnh Thị H, thực hiện. Theo đó trong thời gian từ ngày 3/2 đến ngày 28/3 năm 2023, các bị cáo Tạ H H3, Tạ Văn H, Nguyễn Nam S, Nguyên Thành Tr, đã thực hiện 04 vụ cắt trộm tài sản là dây cáp điện của Công ty cổ phần chiếu sáng và thiết bị điện Hồ Gươm, trên địa bàn xã Khai Th và 02 vụ trộm cắp tài sản là xe máy thuộc sở hữu của các anh Nguyễn Quang L, ở thôn Tầm Thượng, xã Quang Lãng và xe máy của cảu Lê Văn H, ở thôn Đa Chất, xã Đại Xuyên, huyện P, với tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 85.985.000 đồng. Còn Phùng Văn T, vì hám lợi mà tiêu thụ lại chiếc xe máy Honda Wave An pha với giá 3.000.000 đồng, làm phương tiện đi lại cho cá nhân bị cáo. Trịnh Thị H cũng vì hám lợi mà tiêu thụ 70 kg dây cáp điện để hưởng chênh lệch 10.000.000 đồng/kg. Do đó, có đủ căn cứ để truy tố, xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại khoản 2 Điều 173 và khoản 1 điều 323 của BLHS.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản, được pháp luật bảo vệ về tài sản của doanh nghiệp, cá nhân dân được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây mất ổn định trật tự trị an là dư luận quần chúng ở địa phương hoang mang trong một thời gian dài. Các bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc trông nom, quản lý, cất giữ tài sản, lén lút chiếm đoạt tài sản hoặc mang bán lấy tiền chi tiêu, sử dụng cá nhân, nên cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự.
Xét vụ án trộm cắp tài sản có tổ chức mang tính giản đơn, hầu hết các bị cáo bị truy tố về tội trộm cắp tài sản đều có nhiều hoặc nhân thân xấu, nên ngoài việc, bị truy tố theo các điểm c (Tổng tài sản bị chiếm đoạt có giá trị trên 50.000.000 đồng), điểm g (tái phạm nguy hiểm) của khoản 2 điều 173, thì các bị cáo H, H, S còn thực hiện tội phạm mang tính chất chuyên nghiệp (05 lần trở lên), theo điểm b khoản 2 điều 173 BLHS và để quyết định hình phạt, cũng cần cần cá thể hóa thêm vai trò của từng bị cáo trong vụ án, cụ thể:
Bị cáo Tạ H H tham gia 05 vụ trộm cắp tổng giá trị tài sản trộm cắp là 75.985.000 đồng, có 03 tiền án, hình phạt của H3 phải cao nhất so với đồng bọn .
Bị cáo Nguyễn Thành Tr tham gia 02 vụ trộm, có tổng giá trị tài sản là 23.785.000 đồng, có 02 tiền án, nên hình phạt của Tr phải thấp hơn hẳn H.
Bị cáo Tạ Văn H tham gia 06 vụ trộm tổng giá trị tài sản gây thiệt hại là 85.985.000 đồng, nhân thân xấu, hình phạt của H thấp hơn H3 Tr bọn.
Bị cáo Nguyễn Nam S, tham gia 05 vụ trộm tổng giá trị tài sản trộm cắp là 65.038.000 đồng, nhân thân xấu, bị cáo ra đầu thú, nên hình phạt của S thấp 03 bị cáo trên.
Bị cáo Phùng Văn T, tiêu thụ tài sản có giá trị không lớn (9.000.000 đồng), nhưng bị cáo có 01 tiền án, nhân thân xấu, lại phạm tội mới (Mua bán trái phép chất ma túy), ngay trong thời gian chờ xử lý về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, cũng cần có hình phạt nghiêm khắc. Đối với hành vi phạm tội của bị cáo tại Quảng Ninh, ngày 01/12/2023, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đây là hành vi phạm tội được thực hiện sau khi bị cáo đã phạm tội “tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có” nhưng được xét xử trước, nên không tính tình tiết “tái phạm nguy hiểm” và được tổng hợp hình phạt vào bản án mới, Đối với bị cáo Trịnh Thị H, 02 lần phạm tội và hưởng lợi với số tiền 700.000 đồng, nên cũng cần có hình phạt tương xứng giành cho bị cáo.
Xét phần lớn các bị cáo phạm tội nghiêm trọng, với nhiều tình tiết định khung tăng nặng của khoản 2 điều 173 BLHS cùng với bị cáo Phùng Văn T, đang phải chấp hành 01 bản án tù khác, HĐXX nhận thấy cần áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới đủ để cải tạo giáo dục các bị cáo.
Khi lượng hình, xét các bị cáo thật thà khai báo, bị cáo S, bị cáo H5 đầu thú. Bố mẹ S là người có công với cách mạng; bị cáo H phạm tội lần đầu và trường hợp ít nghiêm trọng, đã chủ động nộp lại số tiền thu lợi bất chính, hoàn cảnh gia đình khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận, mà xem xét giảm nhẹ hình phạt của điều 51 BLHS mà giảm nhẹ đáng kể hình phạt. Riêng đối với Trịnh Thị H, bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng của khoản 1 điều 52 BLHS nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định của điều 51 BLHS có địa chỉ và nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đối chiếu với hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2022/HĐTP-TANDTC ngày 10/5/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, thì có đủ điều kiện để áp dụng điều 65 BLHS, cho bị cáo được hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú quản lý, giáo dục cũng đủ giúp bị cáo cải tạo, khắc phục sai phạm và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Đại diện của nguyên đơn dân sự, các bị hại đều không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại giá trị tài sản, nên Tòa không xét.
Về tang vật của vụ án gồm: Về chiếc xe máy nhãn hiệu Wave, số khung Y204071, số máy 1405023 và chiếc xe Honda Blade, không BKS, số khung RLHJA3G04EY115364, số máy JA36E-0219466 và 05 (năm) đoạn dây cáp điện màu đen loại 4x25mm; 4x10mm và 4x16mm, cơ quan điều tra đã trả lại cho các chủ sở hữu. Các bị hại, Đại diện nguyên đơn dân sự, không có yêu cầu đề nghị gì, nên không xét. Đối với chiếc xe máy Honda Blade BKS 29Y5-xxxx đã qua sử dụng là của bị cáo S dùng làm công cụ phương tiện phạm tội, cần tịch thu xung quỹ nhà nước.
Về các vật chứng khác: 01 kìm cắt bằng kim loại dài 60cm. 01 đôi dép nhãn hiệu “ADIDAS”. 01 đôi dép lê hiệu “COQUI” cần tịch thu để tiêu hủy Về số tiền 700.000 đồng mà Trịnh Thị H được hưởng lợi bất chính, bị cáo đã nộp lại tại Chi cục Thi hành án huyện P, cần xung quỹ nhà nước.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Tạ H H, Tạ Văn H, Nguyễn Thành Tr Nguyễn Nam S, phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Tuyên bố các bị cáo Trịnh Thị H, Phùng Văn T, phạm tội “Tiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có”.
Áp dụng các điểm b, c, g khoản 2 Điều 173; Điều 38, Điều 58; các điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử phạt:
Bị cáo Tạ H H3 50 (Năm mươi) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 25/4/2023 Áp dụng các điểm b, c, g khoản 2 Điều 173; Điều 38, Điều 58; các điểm s khoản 1, Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử phạt :
Tạ Văn H 45 (Bốn mươi lăm) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 25/4/2023.
Áp dụng các điểm c, g khoản 2 Điều 173; Điều 38, Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử phạt:
Nguyễn Thành Tr 40 (Bốn mươi) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 28/3/2023.
Áp dụng các điểm b, c khoản 2 Điều 173; Điều 38, Điều 58; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử phạt:
Nguyễn Nam S 32 (Ba mươi hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 07/8/2023.
Áp dụng khoản 1 Điều 323; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65 BLHS của Bộ luật hình sự; Xử phạt :
Trịnh Thị H 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 36 tháng (Ba mươi sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho UBND xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín, thành phố H kết hợp gia đình bị cáo giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo qui định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú ngoài phạm vi huyện, quận thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp quận (huyện) có trách nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ Thi hành án treo đến nơi cư trú để tổ chức việc thi hành án theo quy định của Điều 62 của luật này và thông báo bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viên kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Áp dụng khoản 1 Điều 323; Điều 38, Điều 58; các điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 ; Điều 56 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt:
Phùng Văn T 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
Tổng hợp hình phạt 30 (Ba mươi) tháng tù về tội « Mua bán trái phép chất ma túy », của bản án hình sự số 268/2023 /HSST ngày 01/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quang Ninh. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 42 (Bốn mươi hai) tháng. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị bắt 27/5/2023.
Áp dụng các điểm a,b khoản 1 Điều 47BLHS Điều 106 BLTTHS.Tuyên:
Tịch thu xung quỹ nhà nước số tiền 700.000 đồng (Bảy trăm ngàn đồng) mà bị cáo Trịnh Thị H thu lợi bất chính tự nguyện nộp tại Biên lai thu tiền ngày 16/12/2023, tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện P.
Tịch thu xung quỹ nhà nước chiếc xe máy Honda Blade BKS 29Y5-xxxx đã qua sử dụng là của bị cáo S dùng làm công cụ phương tiện phạm tội.
Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao bằng kim loại, lưỡi dao dài 39 cm, chuôi bàng gỗ dài 13 cm, bản rộng 3,8 cm, phần lưỡi dao dài 26 cm, phần rộng nhất 4,5 cm, đầu lưỡi dao nhọn, một cạnh sắc, bên ngoài bọc bìa cát tông màu xám đã qua sử dụng; 01 chiếc kìm cắt cáp bằng kim loại dài 60cm, có 02 tay cầm màu xanh lá dài 51 cm, phần tay cầm bọc cao su màu đen, phần lưỡi kìm dài 09 cm, lưỡi cong, đầu nhọn màu nâu, trên mặt kìm co chữ 600MM, đã qua sử dụng; 01 đôi dép lê màu đen, kẻ sọc ngang màu trắng, nhãn hiệu “ADIDAS” đã qua sử dụng; 01 đôi dép lê màu đỏ đen, trên mặt dép có chữ “COQUI” đã qua sử dụng; 01 chiếc quần nỉ dài 93 cm, phần rộng 45 cm, hai bên ống có túi, mặt trước ống quần phải có chữ “T90” đã qua sử dụng hiệu
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 BLTTHS; Bị cáo, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn dân sự, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bẩn sn được niêm yết hợp lệ.
Bản án về về tội trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 10/2024/HS-ST
Số hiệu: | 10/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Xuyên - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về