Bản án về ttranh chấp hợp đồng vay tài sản số 17/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 17/2023/DS-ST NGÀY 14/04/2023 VỀ TTRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 4 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 219/2022/TLST-DS ngày 06 tháng 10 năm 2022 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2023/QĐXXST - DS ngày 24 tháng 3 năm 2023 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2023/QĐST - DS ngày 05 tháng 4 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng N Việt Nam Địa chỉ: Số nhà 02, đường L, phường T, quận B, thành phố Hà Nội Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn T; Chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lưu Nguyên P; Chức vụ: Giám đốc phòng giao dịch Nơi làm việc: Ngân hàng N Việt Nam, Chi nhánh K, Bắc Đắk Lắk, Phòng giao dịch P.

Địa chỉ: Thôn 12, xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk Văn bản ủy quyền số 227/UQ ngày 04 tháng 8 năm 2022 (Có mặt)

Bị đơn: Bà Hà Thị T; sinh năm 1969 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn X 5 (Nay là thôn 8), xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Hà Văn H; sinh năm 1966 (Vắng mặt)

2. Ông Hà Đức H; sinh năm 2003 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 5 (Nay là thôn 8), xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Lưu Nguyên P trình bày:

Ngày 03 tháng 6 năm 2021, Ngân hàng N Việt Nam (Gọi tắt là Ngân hàng) cho bà Hà Thị T, ông Hà Văn H và ông Hà Đức H (Gọi tắt là bà T, ông H và ông H) vay 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng). Lãi suất: 11%/năm; lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn; lãi suất chậm trả: 150% lãi suất trong hạn; thời hạn vay: 12 tháng, kể từ ngày 03 tháng 6 năm 2021; hình thức vay: Không có bảo đảm.

Quá trình thực hiện hợp đồng, bà T, ông H và ông H đã trả cho Ngân hàng được 8.390.137đ tiền lãi, chưa trả gốc.

Tính đến ngày 14 tháng 4 năm 2023, bà T, ông H và ông H còn nợ Ngân hàng tổng số tiền 91.415.890đ (Gốc: 80.000.000đ, lãi suất 11.415.890đ).

Mặc dù đã quá hạn trả nợ, nhưng bà T, ông H và ông H không trả do vậy Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà T, ông H và ông H trả cho Ngân hàng số tiền tạm tính đến ngày 14 tháng 4 năm 2023 là 91.415.890đ và lãi suất phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 5209 - LAV202101243 ngày 03 tháng 6 năm 2021, kể từ ngày 14 tháng 4 năm 2023 cho đến khi bà T, ông H và ông H trả xong nợ.

Quá trình giải quyết vụ án, ông Hà Văn H trình bày:

Ngày 03 tháng 6 năm 2021, ông và bà T vay của Ngân hàng 80.000.000đ. Thời hạn vay 12 tháng. Do làm ăn thua lỗ nên ông bà chưa trả được nợ. Đến nay, Ngân hàng khở kiện thì ông bà đồng ý trả cho Ngân hàng tiền vay và lãi suất phát sinh.

Tại Hợp đồng ủy quyền ngày 04 tháng 6 năm 2021 thể hiện nội dung:

Ông Hà Văn H và ông Hà Đức H ủy quyền cho bà Hà Thị T thực hiện việc vay vốn Ngân hàng.

Tại Hợp đồng tín dụng số 5209 - LAV202101243 ngày 03 tháng 6 năm 2021 và tại Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm giấy nhận nợ thể hiện nội dung:

Ngân hàng cho bà Hà Thị T vay 80.000.000đ. Lãi suất cho vay trong hạn: 11%/năm; lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn; lãi suất chậm trả: 10% lãi suất trong hạn. Thời hạn vay: 12 tháng, kể từ ngày 03 tháng 6 năm 2021.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát sau khi phát biểu ý kiến đã khẳng định Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; đại diện của nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án. Mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn vắng mặt. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các điều 463, 466, 468 của Bộ luật dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả số tiền 91.415.890đ và lãi suất phát sinh kể từ ngày 14 tháng 4 năm 2023 cho đến khi trả xong nợ. Về án phí, chi phí tố tụng đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được xe m xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thụ lý vụ án:

+ Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả tiền vay theo hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết. Như vậy quan hệ pháp luật ở đây là:“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản" được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Nguyên đơn làm đơn khởi kiện và có nộp tiền tạm ứng án phí. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại xã P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Vì vậy Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk căn cứ vào các Điều 35, 39 và khoản 3 Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân sự để thụ lý vụ án.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không hòa giải được. Tòa án đã triệu tập, nhưng bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vẫn vắng mặt tại phiên tòa, vì vậy Tòa án căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[3]. Về nội dung quan hệ pháp luật có tranh chấp:

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn (Ngân hàng N Việt Nam), thì Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại Hợp đồng tín dụng thể hiện ngày 03 tháng 06 năm 2021, Ngân hàng cho bà T vay 80.000.000đ. Lãi suất cho vay trong hạn: 11%/năm; lãi suất quá hạn: 150% lãi suất trong hạn; lãi suất chậm trả: 150% lãi suất trong hạn; thời hạn vay: 12 tháng, kể từ ngày 3 tháng 6 năm 2021.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng, thừa nhận bà T đã trả cho Ngân hàng được 8.390.137đ tiền lãi, chưa trả gốc.

Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, ông H thừa nhận ông và bà T có vay của Ngân hàng số tiền với lãi suất và thời hạn như trong hợp đồng và xác nhận đã trả được một phần tiền lãi, chưa trả gốc. Tại phiên tòa, đại diện Ngân hàng xác định tính đến ngày 14 tháng 4 năm 2023, ông H, bà T, ông H còn nợ số tiền 91.415.890đ (Gốc: 80.000.000đ, lãi suất 11.415.890đ). Xét thấy khoản tiền ông H, bà T, ông H vay của Ngân hàng đã quá hạn trả nợ theo Hợp đồng tín dụng và theo quy định tại Điều 466 của Bộ luật dân sự, cho nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông H, bà T, ông H trả số tiền 91.415.890đ (Gốc: 80.000.000đ, lãi suất 11.415.890đ) là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, buộc ông H, bà T, ông H trả cho Ngân hàng số tiền 91.415.890đ (Gốc: 80.000.000đ, lãi suất 11.415.890đ).

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng được chấp nhận, nên ông H, bà T và ông H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về dân sự có giá ngạch với số tiền 4.570.794đ (Làm tròn 4.570.000đ) được tính: (91.415.890đ x 5% = 4.570.794đ). Trả lại cho Ngân hàng số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các điều 147; 227; 235; 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các điều 385; 398; 463, 466 và Điều 468 của Bộ luật dân sự;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N Việt Nam, buộc ông Hà Văn H, bà Hà Thị T và ông Hà Đức H trả cho Ngân hàng N Việt Nam số tiền 91.415.890đ (Gốc:

80.000.000đ, lãi suất tính đến ngày 14 tháng 4 năm 2023 là 11.415.890đ).

Tiếp tục tính lãi suất phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 5209 - LAV202101243 ngày 03 tháng 6 năm 2021 và theo Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm giấy nhận nợ, kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi ông Hà Văn H, bà Hà Thị T và ông Hà Đức H trả xong nợ.

2. Về án phí:

+ Ông Hà Văn H, bà Hà Thị T và ông Hà Đức H phải chịu 4.570.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

+ Trả lại cho Ngân hàng N Việt Nam số tiền 2.055.000đ đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 60AA/2021/0009215 ngày 16 tháng 9 năm 2022.

4. Về quyền và thời hạn kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại điều 2 của Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ttranh chấp hợp đồng vay tài sản số 17/2023/DS-ST

Số hiệu:17/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về