Bản án về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu số 12/2024 DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 12/2024 DS-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG CHUYN NHƯỢNG QUYỀN S DỤNG ĐT VÔ HIỆU

Trong các ngày 29/01/2024 và ngày 28/02/2024 tại Hội trường xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 104/2023/TLST-DS ngày 31/5/2023 về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 228/2023/QĐXXST-DS ngày 30/11/2023, Thông báo về việc chuyển lịch xét xử vụ án dân sự số 03/2023/TB-TA ngày 25/12/2023, Quyết định tạm ngừng phiên toà số 06/2024/QĐ-DS ngày 29/01/2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Biên T, sinh năm 1985; nơi cư trú: tổ H, khu E, phường T, TP ., tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đỗ Huy H, sinh năm 1985; nơi cư trú: tổ C, khu E, phường H. TP., tỉnh Quảng Ninh- là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (theo hợp đồng ủy quyền ngày 26/10/2023), có mặt.

2. Bị đơn: Chị Đoàn Thị Thu T1, sinh năm 1995; nơi ĐKNKTT: tổ D, khu V, phường M, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú hiện nay: tổ A, khu D, phường H, TP ., tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Chị Bùi Thị L, sinh năm 1985; nơi cư trú: tổ C, khu A. phường H. TP., tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

3.2. Chị Hoàng Thị M, sinh năm 1985; nơi cư trú: tổ B, khu I, phường H. TP., tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của chị M: Chị Bùi Thị L, sinh năm 1985; nơi cư trú: tổ C, khu A, phường H, TP., tỉnh Quảng Ninh- là người đại diện theo ủy quyền của chị M (theo hợp đồng ủy quyền ngày 26/01/2024), có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị L và chị M: Bà Tô Phương T2 - Luật sư Công ty L1 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ninh, có mặt.

3.3. Anh Lê Xuân T3, sinh năm 1984; nơi cư trú: tổ H, khu E, phường T, TP H, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

3.4. Công ty cổ phần Đ1; địa chỉ: số nhà F, đường H, tổ H, khu I, phường B, TP H, tỉnh Quảng Ninh.

* Người đại diện theo pháp luật: bà Đàm Thị D. sinh năm 1990; chức vụ: Giám đốc; địa chỉ: B, tòa b, chung cư L, phường T, TP ., tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

3.5. Bà Đàm Thị D, sinh năm 1990; nơi cư trú: B1722, tòa b, chung cư L, phường T. TP., tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

3.6. Công ty TNHH P; địa chỉ: số B, phố H, phường H, TP ., tỉnh Quảng Ninh.

* Người đại diện theo pháp luật: bà Đinh Thị Hải Y - chức vụ: giám đốc, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

3.7. Anh Nguyễn Trung K, sinh năm 1986: nơi cư trú: tổ E, khu B. phường H. TP ., tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

3.8. Anh Đàm Quang D1, sinh năm 1991; nơi cư trú: thôn N, xã T, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên toà ngày 29/01/2024, vắng mặt tại phiên toà ngày 28/02/2024 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

4. Người làm chứng: Chị Lý Thị Thu H1, sinh năm 1991; nơi cư trú: khu B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 13/5/2023, đơn khởi kiện sửa đổi bổ sung ngày 24/5/2023 của nguyên đơn chị Lê Biên T và lời khai của chị T trong quá trình giải quyết vụ án, thể hiện:

Vào ngày 17/3/2021, qua bạn môi giới nhà đất là anh Đàm Quang D1 giới thiệu, chị T đã ký hợp đồng đặt cọc với bà Đoàn Thị Thu T1 để mua lô đất LK05 - 05, diện tích 90m2 thuộc dự án do công ty TXHH P làm chủ đầu tư, với giá 16.800.000đ/1m2, thành tiền 90m2 x 16.800.000đ = 1.512.000.000 đồng (một tỳ năm trăm mười hai triệu đồng). Trừ đi số tiền 81.000.000 đồng chủ đất đã nộp cho công ty TNHH P trước đó, tổng số tiền còn lại chị T phải trả cho chị Đoàn Thị Thu T1 là 1.431.000.000đ (một tỷ, bốn trăm ba mươi mốt triệu đồng). Thời hạn cọc 06 ngày, tính từ ngày 17/3/2021 đến ngày 22/3/2021. Số tiền cọc 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng), trong đó 100.000.000 đồng tiền mặt do anh Đàm Quang D1 (môi giới) nhận tại nhà chị T khi đến cho chị T ký hợp đồng đặt cọc; 100.000.000 đồng chồng chị T là anh Lê Xuân T3 chuyển khoản cho bà Đoàn Thị Thu T1 theo số tài khoản 345556666xx, ngân hàng TMCP S. Hợp đồng đặt cọc có đóng dấu đỏ xác nhận của công ty cổ phần Đ1.

Sau khi cọc tiền, chị T thấy được một vài thông tin về dự án đang có vấn đề không ổn về mặt pháp lý. Chị T có nhắn tin hỏi anh D1 về thông tin dự án thì D1 bào không có vấn đề gì, an tâm. Chị T cũng hỏi anh D1 vì sao lại cho 06 ngày đặt cọc thôi, thường thì 10 đến 15 ngày. Anh D1 trả lời “vì đang sốt đất và chủ bảo vậy”. Một phần cũng vì tin tưởng nên chị T không hỏi gì thêm, bởi nghĩ nếu có vấn đề gì trục trặc thì D1 sẽ là người thông tin và có trách nhiệm giải quyết cho chị T.

Ngày 18/3/2021, chị T tìm được thông báo số 19/2021 /TB - PA ngày 16/3/2021 của công ty TNHH P gửi cho khách hàng và Văn phòng C2 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh về việc “ngăn chặn hành vi lừa đảo chuyển nhượng tại Dự án P”. Chị T gửi văn bản cho anh D1 để hỏi sự việc, anh D1 trả lời là không có vấn đề gì “dự án nào trước sóng mà chẳng có mấy thông báo kiểu này”. Mục đích là đê dân bán tháo ra cho cá mập ôm vào tạo sóng thôi. Hà Khánh C, FLC đều có hết thây C”. Chị T cũng nhắn cho cả bà Đàm Thị D - Giám đốc công ty cổ phần Đ1 nhưng không nhận được câu trả lời từ chị D.

Sáng ngày 22/3/2021, con trai chị T ngã trên trường và bị chấn thương, nên không tới đúng hẹn vào 08 giờ sáng, chị T có nhắn cho anh D1, hẹn đến lúc 11 giờ. Gần 11 giờ trưa chị T mới đến được Phòng công chứng số A tỉnh Quảng Ninh. Chị T ngồi ở ngoài sân đợi và hói anh D1 người đâu, D1 trả lời “vào trong làm hồ sơ treo rồi”. Một lúc sau, bà Đoàn Thị Thu T1, bà Đàm Thị D đi từ trong Phòng C3 tỉnh Quảng Ninh ra bảo hồ sơ đã treo xong rồi. Tại đây chị T nhiều lần hói chị T1, D1, D với hồ sơ như vậy có sao không, mọi người đều trả lời không vấn đề gì cà.

Chị T xin chị T1 bớt được 9.000.000đ (chín triệu đồng), số tiền chị T phải thanh toán còn lại sau khi trừ đi tiền cọc là 1.222.000.000đ (một tỷ, hai trăm hai mươi hai triệu đồng) để mua lô đất LK05 - 05, diện tích 90m2. Chồng chị T là anh Lê Xuân T3 chuyển số tiền 1.219.900.000đ (một tỷ, hai trăm mười chín triệu, chín trăm nghìn đồng) vào tài khoản của bà Đoàn Thị Thu T1 theo số tài khoản 345556666xx, ngân hàng TMCP S, còn lại 2.100.000 đồng (hai triệu, một trăm nghìn đồng) chị T đưa tiền mặt. Tổng số tiền chị T đã chuyển cho bà Đoàn Thị Thu T1 là 1.422.000.000đ (một tỷ, bốn trăm hai mươi hai triệu đồng).

Sau khi thanh toán xong, chị T1 và chị D xin lại bản gốc hợp đồng đặt cọc, chị T đồng ý đưa lại mà không có sự nghi ngờ nào (hiện nay chị T còn bản ảnh chụp của hợp đồng đặt cọc ngày 17/3/2021). Chị T1 đưa lại cho chị T hợp đồng góp vốn đầu tư, phiếu thu, đơn đăng ký xin được tham gia góp vốn xây dựng cơ sở hạ tầng để được chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Nguyễn Trung K với công ty P. Lúc này chị T cũng không suy nghĩ gì nhiều vì quá nhiều việc xảy đến (lo tiền vay Ngân hàng được giải ngân để vào tiền không bị mất cọc, lo về đi chữa trị cho con mới bị tai nạn).

Ngày 23/3/2021, chị T biết có Văn bản số 20/2021/CV-PA ngày 22/3/2021 của Công ty TNHH P về việc “không thực hiện chuyển nhượng BĐS tại dự án P”, chị T nhắn tin hỏi chị Đàm Thị D, thì được trả lời đã gửi hồ sơ trước khi có văn bản.

Chị T nhiều lần liên hệ với chị Đoàn Thị Thu T1, Đàm Thị D để giải quyết vụ việc, nếu không được phải trả lại tiền cho chị T. Nhưng đến nay chị Đoàn Thị Thu T1 vẫn không trả tiền.

Nay chị T yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết: tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/3/2021 giữa chị T với chị Đoàn Thị Thu T1 đối với lô đất LK05 - 05, diện tích 90m2 thuộc dự án khu Trang tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh do công ty TNHH P làm chủ đầu tư là vô hiệu. Buộc chị Đoàn Thị Thu T1 phải trả lại cho chị T số tiền 1.422.000.000 đồng (một tỷ, bốn trăm hai mươi hai triệu đồng).

Tại phiên ngày 29/01/2024, đại diện ủy quyền của nguyên đơn đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên toà để đưa anh Nguyễn Thanh H2 vào làm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vì thời điểm chị T đặt cọc mua Lô đất LK05-05 (chị T đặt cọc với chị T1 ngày 17/3/2021) thì anh H2 lúc đó là nhân viên sàn giao dịch bất động sản TDT (thời điểm này anh H2 là đồng nghiệp của chị Đoàn Thị Thu T1 và hiện nay là chồng chị Đoàn Thị Thu T1) cũng đặt cọc với chị T 50.000.000 đồng (anh H2 đặt cọc với chị T ngày 22/3/2021) để mua lại Lô LK 05-05 mà chị T đặt cọc để mua của chị T1, như vậy là anh H2 và chị T1 có yếu tố thông đồng với nhau để lừa đảo bán cho chị T lô đất trên nhằm chiếm đoạt tiền của chị T.

Hội đồng xét xử đã quyết định tạm ngừng phiên toà và triệu tập anh Nguvễn Thanh H2 đến Tòa án làm việc, tại Tòa án anh H2 khai: anh và chị Đoàn Thị Thu T1 kết hôn vào ngày 22/4/2021, vào khoảng tháng 3/2021 khi đó anh làm nghề mua bán bất động sản nên có đặt cọc cho chị Lê Biên T 50.000.000 đồng đê mua lô đất LK05-05 của chị T, nhưng sau đó vài ngày anh thấy lô đất đó bị sụt giá nên anh không tiếp tục giao dịch với chị T nữa mà chấp nhận mất số tiền đã đặt cọc với chị T; tại thời điểm anh đặt cọc với chị T anh không biết việc giao dịch mua bán đất giữa chị T1 với chị T và anh không có bàn bạc gì với chị T1 về việc giao dịch mua bán đất với chị T, nếu Tòa án tuyên vô hiệu giao dịch mua bán đất giữa chị T1 và chị T và buộc chị T1 phải trả lại tiền cho chị T thì anh không có trách nhiệm liên đới về khoản tiền này.

Tại phiên toà hôm nay (ngày 28/02/2024), đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác nhận anh Đàm Quang D1 đã trả cho chị T số tiền 16.000.000 đồng là tiền anh D1 được nhận do môi giới bán đất giữa chị T1 và chị T nên đại diện ủy quyền của nguyên đơn rút lại một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 16.000.000 đồng, chỉ yêu cầu chị T1 phải trả cho chị T số tiền là: 1.422.000.000 đồng - 16.000.000 đồng = 1.406.000.000 đồng, còn các yêu cầu khởi kiện khác của nguyên đơn vẫn giữ nguyên.

* Quá trình gii quyết vụ án bị đơn chị Đoàn Thị Thu T1 trình bày:

Chị T1 là một môi giới bất động sản, ngày 16/3/2021 chị T1 có nhận được thông tin chào bán lô đất tại dự án P ký hiệu là LK05 - 05 diện tích 90m2 của chị Bùi Thị L và chị Hoàng Thị M là chủ sở hữu lô đất với mức giá 16.500.000 đồng/m2, tổng giá trị ô đất là 1.485.000.000 đồng (một tỷ, bốn trăm tám mươi lăm triệu đồng), phí trả môi giới giao dịch thành công là 10.000.000 đồng (mười triệu đồng chẵn). Sau khi nhận được thông tin chào bán ô đất LK 05-05, chị T1 đã chào bán gửi thông tin ô đất cho chị Đàm Thị D.

Ngày 17/3/2021, chị T1 nhận được thông tin từ chị D là anh Đàm Quang D1 đang có khách hàng muốn mua ô đất LK05- 05 với mức giá 16.800.000 đồng/m2, tương đương tông giá trị ô đất là: 1.512.000.000 đồng (một tỷ, năm trăm mười hai triệu đồng chẵn). Trong đó nếu giao dịch thành công thì phí môi giới của chị T1 là 10.000.000 đồng (mười triệu đồng), phần của chị D và anh D1 là 27.000.000 đồng (hai mươi bảy triệu đồng). Sau đó chị T1 đã thông tin đến chị L và M (chủ sở hữu ô đất LK05-05) về việc có khách hàng muốn mua ô đất của 2 chị.

Do được chủ giao thông tin cho bán và đứng ra nhận cọc ô đất LK05- 05 nên ngày 17/3/2021 chị T1 đã đứng ra nhận cọc và đứng tên trên phiếu cọc với khách hàng Lê Biên T. Thời hạn đặt cọc là 6 ngày kể từ ngày 17/3/2021 đến ngày 22/3/2021. Số tiền nhận cọc cho ô đất LK05 - 05 là 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng), trong đó 100.000.000 đồng được thanh toán bằng tiền mặt và 100.000.000 đồng được chuyển khoản đến tài khoản ngân hàng của chị T1 (STK: 345556666xx tại Ngân hàng TMCP S). Sau khi nhận được tiền cọc ô đất từ chị T, chị T1 đã thông báo đến chị L và M và chuyển khoản đến chị M (tên tài khoản: Hoàng Thị M, Số tài khoản: 1070048516xx, Ngân hàng TMCP C4) số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) để chị M xác nhận đã nhận cọc thành công và bán ô đất LK05 - 05.

Kể từ khi nhận cọc chị T1 chưa từng gặp mặt và trao đổi riêng hay biết chị T là ai, chỉ đến ngày thanh toán tiền ô đất LK05- 05 ngày 22/3/2021 chị T1 mới gặp chị T.

Ngày 22/3/2021 như đã hẹn với chị T, chị T1 và chị L (chủ ô đất LK05 - 05) có đến văn phòng C2 tại phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh để trao đổi và hoàn tất thủ tục mua bán ô đất LK05- 05, cùng sự góp mặt của 2 môi giới D và D1. Tại đây, chị T có trao đổi với chị T1, chị L, chị D, anh D1 về các vấn đề xoay quanh dự án P đang có nhiều vấn đề. Tuy nhiên chị T vẫn thực hiện việc giao dịch mua bán ô đất LK05- 05 và chị có nói rò rằng dù biết thông tin đó nhưng chị vẫn chấp nhận rủi ro để vào tiền thanh toán công chứng treo hồ sơ ô đất này, có sự chứng kiến của chị T1, chị L, chị D, anh D1.

Trong quá trình nói chuyện cùng với tất cả mọi người có mặt (bao gồm: chị T1, chị L, chị D, anh D1) tại văn phòng C2, chị T có đề nghị bớt cho chị một ít so với giá bán ban đầu mà chị đã trao đổi với môi giới D1 và được sự đồng ý của chị L (chủ sở hữu ô đất LK05- 05) là bớt cho chị 9.000.000 đồng (chín triệu đồng). Số tiền chị T sẽ phải thanh toán cho chị T1 là đại diện đứng ra nhận tiền ô đất sau khi đã trừ tiền cọc 200.000.000 đồng là 1.222.000.000 đồng (một tỷ hai trăm hai mươi hai triệu đồng), còn lại 81.000.000 đồng (tám mươi mốt triệu đồng) nộp cho chủ đầu tư Công ty TNHH P.

Sau khi nhận được tiền thanh toán từ chị T, chị T1 có chuyên khoản trực tiếp cho chị L toàn bộ số tiền của ô đất sau khi trừ tiền cọc 200.000.000 đồng đã gửi trước đó, tiền nợ chủ đầu tư Phúc An 81.000.000 đồng, tiền môi giới của chị D và anh D1 27.000.000 đồng, số tiền còn lại chị L nhận được là: 1.195.000.000 đồng (một tỷ, một trăm chín mươi lăm triệu đồng), số tiền này được chị T1 chuyển khoản qua tài khoản Bùi Thị L số tài khoản 1098000779xx tại Ngân hàng TMCP C4. Sau đó chị T1 được chị L thanh toán cho phần phí môi giới thành công là 9.000.000 đồng (chín triệu đồng).

Trong quá trình giao dịch mua bán ô đất LK05 - 05, chị T1 nhận thấy mọi người đều trong trạng thái minh mẫn. không có sự ép buộc, không xây ra cự cãi và nhận được sự đồng thuận giữa 2 bên mua và bán là giao dịch đã thành công và xong xuôi.

Qua nhiều ngày sau khi giao dịch thành công ô đất LK05- 05, chị T có nhắn tin với chị T1 về việc nhện được nhiều thông tin không tốt trên mạng về dự án P. nên chị muốn lấy lại ít tiền từ tiền thanh toán ô đất LK05- 05 và cùng đầu tư chung ô đất đó với chủ ô đất ban đầu bán cho chị, mỗi người bỏ ra một ít đầu tư chung sau này bán đi có lợi nhuận thì cùng chia nhau, chị T1 có trao đổi với chị L thông tin từ chị T nhưng không được sự đồng ý của chị L. Sau đó chị T1 đã báo với chị T về việc này.

Một thời gian sau chị T lại tiếp tục nhắn tin cho chị T1 xin bớt 1 ít, chị có bảo chị gửi bán ô đất LK05- 05 cho các sale khác nhưng họ kêu giá cao quá không bán được nên muốn bớt chút giá xin lại ít tiền để chị bán ô LK05 - 05 thu hồi vốn. Chị T1 có trao đổi với chị L về việc này và chị cũng không đồng ý, chị T1 lại tiếp tục trao đổi với phía chị D để chị D liên hệ với anh D1 xem có bớt được ít nào cắt từ phần tiền chênh lệch 27.000.000 đồng cho chị T không nhưng anh D1 cũng không đồng ý. Chị T1 đã cố gắng liên hệ với các bên để giúp chị T giảm bớt được phần nào nhưng không thành công. Sau đó chị T1 có báo lại cho chị T về việc sẽ không bớt tiền cho chị T. Từ đó chị T không liên lạc lại với chị T1 đã hơn 2 năm nay.

Việc chị T nói trong nội dung khởi kiện về việc chị T1 cố tình che giấu hồ sơ để bắt chị T phải thanh toán tiền ô đất LK05- 05 là không đúng sự thật, vì chính chị T nói rằng đã biết mọi thông tin xoay quanh dự án P nhưng vẫn chịu rủi ro thanh toán ô đất, điều này có sự chứng kiến của rất nhiều người và chị T1 có ghi âm lại cuộc giao dịch do thói quen công việc. Chị T1 chỉ là môi giới bất động sản trong giao dịch mua bán ô đất LK05- 05 dự án P; chị T1 không cố tình che giấu thông tin về dự án P cho chị T trong thời gian giao dịch mua bán ô đất LK05- 05.

Vì vậy chị T1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị T về việc “Tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/3/2021 giữa chị T với chị đối với lô đất LK05- 05, diện tích 90m2 thuộc dự án khu Trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H (nay là thành phố H), tỉnh Quảng Ninh do công ty TNHH P làm chủ đầu tư là vô hiệu và buộc chị (Đoàn Thị Thu T1) phải trả lại cho chị T số tiền 1.422.000.000đ (một tỷ bốn trăm hai mươi hai triệu đồng). Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà, qua việc xét hỏi tại phiên tòa, bị đơn nhận thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng, nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Xuân T3 trình bày:

Anh T3 là chồng của chị Lê Biên T, quá trình trao đổi mua bán ô đất P ký hiệu là LK05- 05 diện tích 90m2 anh T3 không trực tiếp tham gia, mọi việc đều giao cho vợ là Lê Biên T quyết định. Vào ngày 17/3/2021 khoảng 10 giờ sáng chị T có nhắn gọi bảo anh T3 chuyển tiền vào số tài khoản 345556666x với số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) với nội dung “đặt cọc đất” và sáng ngày 22/3/2021 khoảng 12 giờ trưa chuyển tiếp số tiền 1.219.900.000đ (một tỷ, hai trăm mười chín triệu, chín trăm nghìn đồng) vào số tài khoản trên với nội dung “chuyển tiền đất” lý do anh T3 thay vợ chuyển khoản là do chị T không thạo về thao tác chuyển khoản trên điện thoại.

Nay chị T khởi kiện vụ án thụ lý số 104/2023/TBTL-DS ngày 31/5/2023 anh T3 hoàn toàn đồng ý với quan điểm khởi kiện của chị T: tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/3/2021 giữa chị T với bà Đoàn Thị Thu T1 đối với ô đất LK05-5, diện tích 90m2 thuộc dự án khu trung tâm thương mại D2 tại xà T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh do công ty TNHH P làm chủ đầu tư là vô hiệu. Buộc bà Đoàn Thị Thu T1 phải trả lại cho chị Lê Biên T số tiền 1.422.000.000 đồng (một tỷ bốn trăm hai mươi hai triệu đồng).

* Quá trình gii quyết vụ án và tại phiên toà, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Bùi Thị L trình bày:

Tôi và chị M biết chị Đoàn Thị Thu T1 làm trong Côns ty bất động sản. Vào khoảng cuối tháng 02/2021 tôi và chị M có nhờ chị T1 tìm nguồn bất động sản đầu tư cho chúng tôi. Sau đó chúng tôi được chị T1 và anh Nguyễn Thanh H2 có địa chỉ tại thôn X, xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, giới thiệu cho chúng tôi ô đất LK 05-05 thuộc dự án của Công ty TNHH P. Sau khi anh H2 và chị T1 trao đổi về tổng thể bản vẽ dự án và gửi cho chúng tôi xem bản ảnh hợp đồng góp vốn giữa anh Nguyễn Trang K với Công ty TNHH P, lúc đó chúng tôi nghĩ pháp lý đã đầy đủ nên chúng tôi đồng ý đầu tư vào ô đất này với giá 12.700.000 đồng/m2. Tổng giá trị ô đất là 90 m2 x 12.700.000 đồng/m2 = 1.143.000.000 đồng, số tiền nợ hợp đồng là 81.000.000 đồng, số tiền phải thanh toán là: 1.062.000.000 đồng.

Ngày 28/02/2021 anh H2 và chị T1 yêu cầu chúng tôi chuyển tiền cọc ô đất này vào tài khoản của anh Trần Duy C1 số tài khoản 290269999xx với số tiền là: 100.000.000 đồng, chúng tôi chuyển khoản từ tài khoản số 81206920000xx Ngân hàng N chủ tài khoản Bùi Thị L. Sau 6 ngày cọc tiền đến ngày 05/3/2021 anh H2 chỉ định chúng tôi chuyển số tiền còn lại là: 962.000.000 đồng vào tài khoản của anh Nguyễn Trung K tài khoản số 19026676951xxx tại ngân hàng T5 chi nhánh Q, là chủ của ô đất chúng tôi đầu tư. Tôi chuyển tổng số tiền 962.000.000 đồng từ tài khoản số 81206920000xx Ngân hàng N chủ tài khoản Bùi Thị L đến tài khoản số 19026676951xxx tại ngân hàng T5 chi nhánh Q chủ tài khoản Nguyễn Trang K. Trong khoảng thời gian giao dịch mua ô đất LK 05-05 chúng tôi chỉ giao dịch qua anh H2 và chị T1, chúng tôi cũng không biết anh K hay anh C1 là ai.

Trong thời gian đang giao dịch chúng tôi có nhận được thông tin có khách muốn mua ô đất LK05- 05 thuộc dự án công ty TNHH P thông qua chị T1 và anh H2, cũng do chúng tôi có việc cần thu hồi vốn nên đã nhờ chị T1 giao dịch ô đất này giúp chúng tôi với giá 16.500.000 đồng/m2. Ngày 17/3/2021 chị T1 thông báo đã có khách đồng ý giao dịch ô đất này với giá 16.500.000 đồng/m2, đặt cọc trước 200.000.000 đồng thời gian cọc là 6 ngày, phí môi giới cho chị Đoàn Thị Thu T1 10.000.000 đồng và chúng tôi đồng ý giao dịch. Chị Đoàn Thị Thu T1 chuyển số tiền đặt cọc 200.000.000 đồng từ tài khoản 345556666xx tại Ngân hàng TMCP S của chị Đoàn Thị Thu T1 đến tài khoản 1070048516xx ngân hàng C4 chi nhánh Q chủ tài khoản Hoàng Thị M.

Kể từ trước ngày nhận tiền cọc tôi chưa từng gặp mặt và trao đổi riêng với chị Lê Biên T và cùng không biết chị Lê Biên T là ai cho đến ngày 22/3/2021 tôi mới gặp chị T.

Ngày 22/3/2021 chúng tôi được chị Đoàn Thị Thu T1 thông báo cho tôi ra giao dịch tại phòng P để nhận lại toàn bộ số tiền đã đầu tư. Tại đây chị T nói xoay quanh các thông tin của P đang có vấn đề tuy nhiên chị vẫn giao dịch chuyển tiền mua ô đất LK05- 05, chị nói chị biết thông tin đó nhưng chị vẫn chấp nhận rủi ro để thanh toán có sự chứng kiến của chị Đoàn Thị Thu T1, chị Đàm Thị D. Trong lúc giao dịch chị T1 có V định giải thích và nói các vấn đề có thể gặp phải khi giao dịch nhưng chị T nói tất cả chị đều biết và vẫn quyết định mua ô đất LK05- 05 thuộc dự án Công ty P và chị T chấp nhận mọi rủi ro, nguyện vọng của chị T khi giao dịch có đề nghị bớt một hai lả và tôi đã đồng ý ra lộc cho chị T 9.000.000 đồng. Số tiền còn lại thanh toán được chuyển trực tiếp qua tài khoản của chị Đoàn Thị Thu T1.

Sau đó chị Đoàn Thị Thu T1 trừ đi tiền cọc, khoản nợ hợp đồng, tiền ra lộc cho chị Lê Biên T, số còn lại chị T1 chuyên khoản cho tôi tổng số 1.195.000.000 đồng qua tài khoản: 1098000779xx ngân hàng C4 chi nhánh Q chủ tài khoản Bùi Thị L.

Khi nhận đủ số tiền tôi có chuyển khoản lại tiền phí môi giới cho chị Đoàn Thị Thu T1 với số tiền là 9.000.000 đồng từ tài khoản 1098000779xx ngân hàng C4 chi nhánh Q chủ tài khoản Bùi Thị L đến tài khoản 345556666xx tại Ngân hàng S chủ tài khoản Đoàn Thị Thu T1.

Trong thời gian giao dịch đến khi kết thúc quá trình giao dịch chúng tôi gồm chị Đoàn Thị Thu T1, Đàm Thị D, chị Lê Biên T không xảy ra tranh cãi hay ép buộc gì giữa các bên, tất cả các bên đều rất tỉnh táo khi giao dịch. Các văn bản của P trước ngày 22/3/2021 tôi không nắm được và cùng không biết được thông tin.

Nay chị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/3/2021 giữa chị T và chị Đoàn Thị Thu T1 đối với lô đất LK05- 05 diện tích 90m2 thuộc dự án khu trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, TP .. tỉnh Quảng Ninh do Công ty TNHH P làm chủ đầu tư là vô hiệu và buộc chị Đoàn Thị Thu T1 phải trả lại cho chị T số tiền là 1.422.000.000 đồng (một tỷ, bốn trăm hai mươi hai triệu đồng). Tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện này, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa chị L có ý kiến đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Quá trình gii quyết vụ án, chị Hoàng Thị M trình bày:

Tôi và chị Bui Thị L biết chị Đoàn Thị Thu T1 làm trong Công ty B. Vào khoảng cuối tháng 2/2021 tôi và chị Bùi Thị L có nhờ chị T1 tìm nguồn BĐS đầu tư cho chúng tôi. Sau đó chúng tôi được chị T1 và anh Nguyễn Thanh H2 là chồng của chị Đoàn Thị Thu T1 hiện tại có địa chỉ tại thôn X, xà T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, giới thiệu cho chúng tôi ô đất LK05- 05 thuộc dự án của Công ty TNHH P. Sau khi anh H2 và chị T1 trao đổi về tổng thể bản vẽ dự án và gửi cho chúng tôi xem bản ảnh hợp đồng góp vốn giữa anh Nguyễn Trang K với Công ty TNHH P, lúc đó chúng tôi nghĩ pháp lý đã đầy đủ nên chúng tôi đồng ý đầu tư vào ô đất này với giá 12.700.000 đồng/m2. Tổng giá trị ô đất là 90 m2 x 12.700.000 đồng/m2 = 1.143.000.000 đồng, số tiền nợ hợp đồng là 81.000.000 đồng, số tiền phải thanh toán là: 1.062.000.000 đồng.

Ngày 28/02/2021 tôi nhận được thông tin từ chị Bùi Thị L thông báo anh H2 và chị T1 nếu chúng tôi đồng ý mua ô đất LK05- 05 thuộc dự án Công ty TNHH P với số tiền như trên, anh H2 và chị T1 yêu cầu chúng tôi chuyển tiền cọc ô đất này vào tài khoản của anh Trần Duy C1 số tài khoản 290269999xx với số tiền là: 100.000.000 đồng. Tôi và chị L đồng ý và thống nhất chuyển khoản từ TK số 812069200 0001 ngân hàng N chủ tài khoản Bùi Thị L. Thời gian cọc là 6 ngày kể từ ngày 28/02/2021 đến ngày 05/3/2021.

Đến ngày 05/3/2023 anh H2 hẹn chúng tôi ra Phòng P, nhưng do công việc tôi không ra được, chị L theo hướng dẫn của anh H2 ra làm thủ tục. Sau đó tôi nhận được thông tin chị L báo về là anh H2 chỉ định chúng tôi chuyển số tiền còn lại là: 962.000.000 đồng vào tài khoản của anh Nguyễn Trang Ktài khoản số 19026676951xxx tại ngân hàng T5, chi nhánh Q, là chủ của ô đất chúng tôi đầu tư. Chị L đã chuyển tổng số tiền 962.000.000 đồng từ tài khoản TK số 81206920000xx ngân hàng N chủ tài khoản Bùi Thị L đến tài khoản số 19026676951xxx tại ngân hàng T5 chi nhánh Q, chủ tài khoản Nguvễn Trang K. Trong khoảng thời gian giao dịch mua ô đất LK05- 05 chúng tôi chỉ giao dịch qua anh H2 và chị T1 chúng tôi cũng không biết anh K hay anh C1 là ai.

Trong thời gian đang giao dịch chúng tôi có nhận được thông tin có khách muốn mua ô đất LK05- 05 thuộc dự án công ty TNHH P thông qua chị T1 và anh H2, cũng do chúng tôi có việc cần thu hồi vốn nên đã nhờ chị T1 giao dịch ô đất này giúp chúng tôi với giá 16.500.000 đồng/m2. Ngày 17/3/2021 chị T1 thông báo đã có khách đồng ý giao dịch ô đất này với giá 16.500.000 đồng/m2, đặt cọc trước 200.000.000 đồng thời gian cọc là 6 ngày, phí môi giới cho chị Đoàn Thị Thu T1 10.000.000 đồng và chúng tôi đồng ý giao dịch. Chị Đoàn Thị Thu T1 chuyển số tiền đặt cọc 200.000.000 đồng từ tài khoản 345556666xx tại ngân hàng S của chị Đoàn Thị Thu T1 đến TK 1070048516xx ngân hàng C4 chi nhánh Q chủ TK Hoàng Thị M.

Kể từ trước ngày nhận tiền tôi chưa từng gặp mặt và trao đổi riêng với chị Lê Biên T và cũng không biết chị Lê Biên T là ai.

Ngày 22/3/2021 chúng tôi được chị Đoàn Thị Thu T1 thông báo cho tôi ra giao dịch tại phòng P để nhận lại toàn bộ số tiền đã đầu tư. Nhưng cũng do đặc thù công việc tôi không ra được và đã giao chị L ra làm thủ tục theo hướng dẫn của chị T1.

Nay chị T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/3/2021 giữa chị T và chị Đoàn Thị Thu T1 đối với lô đất LK05-05 diện tích 90m2 thuộc dự án khu trung tâm thương mại, dân cư tại xã T. TP ., tỉnh Quảng Ninh do Công ty TNHH P làm chủ đầu tư là vô hiệu: buộc chị Đoàn Thị Thu T1 phải trả lại cho chị T số tiền là 1.422.000.000 đồng (một tỷ, bốn trăm hai mươi hai triệu đồng). Tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện này, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại phiên toà Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị L và chị M đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và có quan điểm:

- Không đồng tình với quan điểm của chị T1 khi cho rằng vai trò của chị T1 trong giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với lô đất LK05-05 thuộc dự án do Công ty TNHH P là chủ đầu tư chỉ là môi giới, bởi lẽ thông qua các hồ sơ, tài liệu trong vụ án và thông qua toàn bộ quá trình giao dịch với bên mua là bà T và ông T3 đã thể hiện chị T1 tham gia với vai trò là người bán đất, bà L và bà M chỉ nhận tiền từ T1 sau khi T1 hoàn thành xong giao dịch, toàn bộ quá trình giao dịch ô đất LK05-5 chị T1 đều tự nhận mình là chủ đất vì vậy nên bên mua đã tin tưởng ký kết hợp đồng và thanh toán tiền.

- Mặt khác, chị L và M cũng không đủ tư cách pháp lý để được phép ủy quyền cho chị T1 bán đất vì thực chất chị L và M cũng chưa phải chủ sở hữu hợp đồng góp vốn đầu tư ô đất LK05-05 vì chưa được chủ đầu tư là Công ty P xác nhận. Đồng thời, chị L, M cũng không phải chủ sử dụng ô đất trên vì tại thời điểm đó mới chỉ có hợp đồng góp vốn đầu tư, dự án chưa đủ điền kiện mở bán theo quy định, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên các bên chưa được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do đó có thể nhận định rằng việc chị T1 đứng ra thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bà T, ông T3 là trái quy định của pháp luật và giao dịch này vô hiệu theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015 do vi phạm điều cấm của pháp luật.

- Về hậu quả hợp đồng vô hiệu: các bên phải trả cho nhau những gì đã nhận; về lỗi: các bên đều có lỗi khi tham gia giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên không bên nào có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho bên còn lại.

* Quá trình gii quyết vụ án bà Đàm Thị D trình bày:

Ngày 16/3/2021, tôi nhận được thông tin từ môi giới Đoàn Thị Thu T1 về ô đất LK05- 05 diện tích 90m2 tại dự án P chủ ô đất là chị Bùi Thị L và chị Hoàng Thị M đang chào bán với mức giá 16.500.000 đồng/m2, tổng giá trị ô đất là 1.485.000.000 đồng (một tỷ bốn trăm tám mươi lăm triệu đồng).

Tối muộn ngày 16/3/2021, môi giới đất là anh Đàm Quang D1 có nhắn tin cho tôi hỏi về thông tin các ô đất bán tại dự án P, tôi liền gửi thông tin ô đất LK05-05 cho anh D1 với mức giá chủ thu về là 16.500.000 đồng/m2.

Sáng ngày 17/3/2021, anh D1 có báo với tôi rằng anh đang có khách đồng ý mua ô đất LK05-05 với mức giá 16.800.000 đồng/m2, tương đương tổng giá trị ô đất là: 1.512.000.000 đồng (một tỷ, năm trăm mười hai triệu đồng chẵn). Tôi có trao đổi với anh D1 là ô đất đã được chủ đất công chứng treo tại Văn phòng C2 trước đó và gửi cho anh thông tin hợp đồng góp vốn đầu tư của ô đất.

Sau đó khách hàng của anh D1 là chị Lê Biên T đã thực hiện thủ tục đặt cọc ô đất LK05- 05 P với số tiền cọc 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng), thời hạn đặt cọc là 6 ngày kể từ ngày 17/3/2021 đến ngày 22/3/2021, sử dụng phiếu cọc có đóng dấu đỏ của Công ty Cổ phần Đ1 do tôi làm đại diện theo pháp luật.

Trong suốt quá trình nhận cọc tôi đều làm việc trực tiếp với anh D1, trao đổi mọi thông tin về ô đất với anh D1, anh D1 có trao đổi như thế nào với chị T thì tôi không nắm rõ được.

Đến sáng ngày 21/3/2021, chị T có nhắn tin cho tôi hẹn gặp chị T1 sáng hôm sau gặp nhau trao đổi về ô đất. Tôi có trả lời chị và hẹn chị sáng hôm sau gặp nhau.

Như đã hẹn với chị T, ngày 22/3/2021 tôi cùng môi giới T1, D1 và chị L (chủ ô đất LK05- 05) có đến văn phòng C2 tại phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh để trao đổi với chị T và hoàn tất thủ tục mua bán ô đất LK05- 05.

Tại đây, trong quá trình hoàn tất thủ tục thanh toán ô đất LK05- 05, chị T có trao đổi với tôi, chị L, anh D1 và chị T1 một số thông tin xoay quanh dự án P đang có nhiều vấn đề. Tuy nhiên chị T vẫn thực hiện việc giao dịch mua bán ô đất LK05- 05 và cho biết chị vẫn chấp nhận rủi ro để vào tiền thanh toán công chứng treo hồ sơ ô đất này, có sự chứng kiến của tôi, chị L, chị T1, anh D1. Quá trình thanh toán diễn ra vui vẻ không có sự ép buộc hay tranh cãi giữa các bên liên quan.

Sau khi chị T1 thanh toán thành công ô đất LK05- 05 P, tôi nhận được phần tiền hoa hồng môi giới thành công ô đất là 27.000.000 đồng (hai mươi bày triệu đồng) từ chị T1, tôi đã lập tức chuyên cho anh D1 phần phí môi giới của anh ấy là 16.000.000 đồng (mười sáu triệu đồng) qua tài khoản Đàm Quang D1 có số tài khoản 106000472088 tại ngân hàng TMCP C4.

Nhiều ngày sau khi giao dịch xong xuôi, chị T có nhắn tin trao đổi với tôi nguyện vọng muốn lấy lại ít tiền từ tiền thanh toán ô đất LK05- 05 do nhận được nhiều thông tin không tốt về dự án P và muốn cùng đầu tư chung ô đất đó với chủ ô đất ban đầu bán cho chị, tuy nhiên điều này không nhận được sự đồng ý từ chủ ô đất. Tôi có trao đổi với môi giới T1, cả hai cùng thống nhất giúp đờ chị T bằng cách cùng nhau chào bán ô đất LK05- 05 và có nhận được lời cám ơn từ chị.

Khoảng gần 1 tháng sau, chị T có nhắn tin trao đổi với tôi về việc chị gửi bán ô đất LK05- 05 cho các môi giới khác nhưng các bạn kêu giá cao quá không bán được nên muốn xin chủ cũ LK05- 05 bớt một ít giá xin lại chút tiền để chị bán ô LK05- 05 thu hồi vốn. Tôi có trao đổi với môi giới T1 và D1 về việc này nhưng được thông tin lại là chủ cũ của ô đất LK05- 05 và anh D1 không đồng ý bớt tiền lại cho chị T, tôi đã báo anh Dương b lại việc này cho chị T biết, sau đó tôi cũng không liên hệ lại với chị T kể từ đó.

Nay nguyên đơn khởi kiện chị T1 ra Tòa án nhân dân thành phố Hcạ Long, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Quá trình gii quyết vụ án, anh Nguyễn Trung K có quan điểm tại bản tự khai:

Anh K là người đứng tên trong Hợp đồng góp vốn số 05 LK05/2018 khu Trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh (nhận chuyển nhượng từ bà Trịnh Thị T4 - sđt 09369622xx).

Anh K có ô đất LK5-05 tại dự án, bà L có nhu cầu và đề nghị mua ô đất này của anh K. Tới ngày giao dịch, bà L và môi giới gọi anh K đến phòng P ký hợp đồng giao dịch. Anh K bàn giao hợp đồng góp vốn gốc và toàn bộ hồ sơ liên quan cho bà L và ký hợp đồng tại phòng công chứng.

Mọi giao dịch sau đó của bà L và các chủ đất tiếp theo anh K không biết và không liên quan. (Do thời gian giao dịch với bà L đã quá lâu và đã giao dịch nhiều ô đất khác nên anh K không nhớ số tiền và thời gian giao dịch với bà L, chỉ nhớ tại thời điểm giao dịch, mọi thủ tục sang tên với chủ đầu tư vẫn bình thường).

* Bà Đinh Thị Hi Y là đại diện theo pháp luật của người có quyền li, nghĩa vụ liên quan Công ty TNHH P có quan điểm tại bn tự khai:

Bà Y có nhận được giấy triệu tập số 104/2023/GTT-TA ngày 31/5/2023 của TAND TP Hạ Long về việc bà Lê Biên T có đơn khởi kiện bà Đoàn Thị Thu T1 về ô đất số LK05- 05 thuộc dự án khu đô thị B - H - H - Quảng Ninh do công ty TNHH P làm chủ đầu tư (Đinh Thị Hải Y là đại diện pháp luật). Thực tế là công ty P và anh Nguyễn Trang K (tô E, khu B. phường H, TP ., tỉnh Quảng Ninh) có ký kết hợp đồng góp vốn đầu tư số 05LK05/2018 và hiện nay trên hồ sơ tại công ty vẫn đang là tên anh K. Khi nhận được giấy triệu tập của Tòa án bà Y mới biết được anh K đã bán cho người khác và qua công chứng UV quyền (theo lời khai của anh K, chị T1...).

Ngày 16/3/2021 công ty P có thông báo với quý khách hàng và các văn phòng công chứng tại Quảng Ninh là tất cả các giao dịch mà không có xác nhận của công ty thì đều không đúng với quy định của pháp luật.

Tiếp theo đó là ngày 22/3/2021 công ty P lại tiếp tục gửi thông báo đến văn phòng công chứng như nội dung trên.

Việc anh K chuyển nhượng quyền góp vốn cho người khác là hoàn toàn công ty P không biết vì không thông qua công ty.

Nay với tư cách là bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, đại diện cho công ty P, bà Y có quan điểm như sau: mong muốn hai bên cùng thống nhất đi đến hoà giải. Nếu không hoà giải được thì sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

* Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đàm Quang D1 trình bày:

Tôi làm môi giới bất động sản. Vào khoảng tháng 3 năm 2021 tôi có nhận được cuộc gọi của 1 bạn môi giới là có khách tìm mua đất tại Dự án P cụ thể là chị T1 số CCCD: 0221950005xx và sau đó tôi có hỏi bạn môi giới là Đàm Thị D và bạn D nói là có một ô đất tại dự án P đang chào bán với mức giá 17.000.000 đồng/m2. Sau thời gian đàm phán thì chị T đồng V mua với mức giá 16.800.000 đồng/m2 sau đó bạn môi giới có nhắn cho tôi số điện thoại của chị T và làm thủ tục đặt cọc số tiền đặt cọc là 200.000.000 đồng và hẹn ngày thanh toán số tiền còn lại vào 6 ngày sau. Trong thời gian sáu ngày chờ thanh toán số tiền còn lại thì chị T có gửi cho tôi văn bản của dự án P tạm dừng giao dịch và sang tên thì tôi cũng có gửi lại cho phía môi giới của chủ ô đất P (LK05-05) và sau một ngày trước khi phái thanh toán thì chị T có nhắn với tôi là có văn bản của dự án và không muốn mua đề nghị trả lại số tiền đặt cọc, tôi còn nói với phía môi giới là bạn D và D cùng có nói với chủ đất nhưng chủ đất không đồng ý trả lại số tiền đặt cọc là 200.000.000 đồng và đến ngày thanh toán thì chúng tôi có dẫn hai bên là chủ đất và người mua gặp nhau. Buổi sáng ngày hôm đó thì chị T có bào với tôi là con chị đang trên viện thôi chị thanh toán cho xong.

Vậy là hai bên ra phòng công chứng, chị T đồng ý chuyển tiền cho bên bán và sau đó bên bán (chị D) có chuyển lại cho tôi số tiền phí môi giới là 16.000.000 đồng và tôi có gửi lại 1/2 số tiền đó cho bạn môi giới tên Lý Thị Thu H1 đã kết nối với chị T để mua ô đất LK05-05 tại dự án P, đến nay chị H1 đã chuyển trả lại cho tôi số tiền tôi đã đưa cho chị H1 để tôi thay chị H1 có trách nhiệm hoàn trả cho người đã trả tiền môi giới cho tôi. Khi nhận đặt cọc số tiền 200.000.000 đồng thì chị T có chuyển khoản 100.000.000 đồng cho chị T1 và tôi nhận 100.000.000 đồng tiền mặt sau đó tôi có chuyển luôn số tiền 100.000.000 đồng này cho chị T1.

Theo quan điểm của tôi về vụ án này thì hai bên nên hòa giải để tránh mất thời gian của các bên. Nếu hai bên không thống nhất được phương án hòa giải thì tôi đồng ý giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình làm việc tại Tòa án, anh D1 trình bày: trước khi vụ án được đưa ra xét xử, anh đã hoàn trả đủ số tiền 16.000.000 đồng mà anh đã nhận từ bên bán cho chị Lê Biên T.

* Quá trình giải quyết vụ án, người làm chứng chị Lý Thị Thu H1 trình bày: vào ngày 16/3/2021 do chị Lê Biên T có nhu cầu mua đất nên liên hệ với tôi và tôi là người giới thiệu anh Đàm Quang D1 với chị Lê Biên T để mua bán Lô đất khu P, sau khi giao dịch của anh D1 và chị T thành công tôi có nhận được số tiền hoa hồng là 8.250.000 đồng từ phía anh D1 và tôi không biết chị T là ai vì chỉ liên lạc qua điện thoại.

*/ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc mân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành đúng các thủ tục tố tụng; nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hcạ Long đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: quan hệ tranh chấp giữa chị Lê Biên T với chị Đoàn Thị Thu T1 là "Tranh chấp về tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu" thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về người tham gia tố tụng: quá trình giải quyết vụ án. Tòa án có đưa thêm chị Lý Thị Thu H1 vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, qua xem xét và đánh giá nội dung tranh chấp, Hội đồng xét xử xét thấy: việc giải quyết tranh chấp hợp đồng và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa nguyên đơn chị Lê Biên T với bị đơn chị Đoàn Thị Thu T1 không liên quan gì đến quyền lợi và nghĩa vụ của chị H1 nên Hội đồng xét xử không xác định chị H1 là Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án này mà xác định là người làm chứng.

Tại phiên ngày 29/01/2024, đại diện ủy quyền của nguyên đơn đề nghị Tòa án tạm ngừng phiên toà đế đưa anh Nguyễn Thanh H2 vào làm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử đã quyết định tạm ngừng phiên toà và triệu tập anh Nguyễn Thanh H2 đến Tòa án làm việc. Hội đồng xét xử xét thấy, tại thời điểm chị T giao dịch mua bán đất với chị T1 thì anh H2 chưa phải là chồng chị T1, mặt khác việc anh H2 đặt cọc với chị T để mua lại lô đất của chị T là giao dịch không liên quan đến vụ án tranh chấp giữa chị T và chị T1, do đó Tòa án không xác định anh Nguyễn Thanh H2 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo đề nghị của phía nguyên đơn. Trong trường hợp nếu chị T có căn cứ cho rằng anh H2 có thông đồng với chị T1 trong việc lừa bán đất để chiếm đoạt tài sản của chị T thì chị T có quyền làm đơn tố giác tội phạm đến cơ quan Công an có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về yêu cầu rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: tại đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả số tiền 1.422.000.000 đồng; tại phiên toà hôm nay đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút lại một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 16.000.000 đồng, chỉ yêu cầu chị T1 phải trả cho chị T số tiền là: 1.422.000.000 đồng - 16.000.000 đồng = 1.406.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện, căn cứ khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đại diện nguyên đơn đã rút.

[2] Vnội dung khởi kiện:

[2.1] Xét nguồn gốc lô đất LK05 - 05, diện tích 90m2 thuộc dự án khu Trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh do công ty TNHH P là chủ đầu tư.

Ngày 29/11/2010, UBND tỉnh Q ban hành Quyết định số 3538/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Khu trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H (nay là TP .), tỉnh Quảng Ninh.

Ngày 30/11/2010, UBND tỉnh Q ban hành Quyết định số 3760/QĐ-UBND về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng- kinh doanh hạ tầng Khu trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh, trong đó thể hiện Công ty P là chủ đầu tư dự án trên.

Như vậy UBND tỉnh Q mới chỉ có quyết định phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 và quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng- kinh doanh hạ tầng Khu trung tâm thương mại, dân cư tại xã T; Công ty P mới chỉ đang hoàn thiện hệ thống hạ tầng cơ sở kỹ thuật của dự án trên và việc công ty P ký hợp đồng góp vốn đầu tư xây dựng hạ tầng với bên góp vốn để sau này được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chứ chưa phải là ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; và thực tế đến nay UBND tỉnh Q vẫn chưa có quyết định giao đất của dự án trên cho công ty P, do đó đủ cơ sở xác định lô đất LK05-05 của dự án trên mới chỉ được hình thành trên bản vẽ của sơ đồ dự án chứ chưa hình thành trên thực tế.

[2.2] Xét giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/3/2021 giữa chị Lê Biên T với chị Đoàn Thị Thu T1 đối với lô đất LK05 - 05, diện tích 90m2 thuộc dự án khu Trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh của công ty TNHH P.

Tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: “Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”.

Khon 1 Điều 502 Bộ luật dân sự 2015 quy định về hình thức, thủ tục thực hiện hợp đồng về quyền sử dụng đất: “Hợp đồng về quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Tại điểm a khon 3 Điều 167 Luật đất đai 2013 quy định: “Việc công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất được thực hiện như sau: Hợp đồng chuyển nhượng... quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản quy định tại điểm b khoản này”.

Điều 129 Bộ luật dân sự 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức: “Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu....”.

Hội đồng xét xử thấy rằng giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/3/2021 giữa chị Lê Biên T với chị Đoàn Thị Thu T1 đối với lô đất LK05 - 05, diện tích 90m2 thuộc dự án khu Trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh do công ty TNHH P làm chủ đầu tư chỉ được thực hiện bằng miệng, không được lập thành văn bản và không có công chứng hoặc chứng thực, nên đối chiếu với các quy định nêu trên thì hợp đồng (giao dịch) chuyển nhượng quyển sử dụng đất ngày 22/3/2021 trên bị vô hiệu về mặt hình thức.

Điều 168 Luật đất đai 2013 quy định về thời điểm được thực hiện các quyền của người sử dụng đất “1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, ... quyền sử dụng đất khi có Giấy chứng nhận.

2. Thời điểm người thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc cho thuê; chuyển nhượng quyền sử dụng đất đồng thời chuyển nhượng toàn bộ dự án đối với dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê sau khi có Giấy chứng nhận và có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 194 của Luật này”.

Điều 188 Luật đất đai 2013 quy định về điều kiện thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng... quyền sử dụng đất...

“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

...

3. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai và có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”.

Tại Điều 2 Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm quy định như sau:

“2. Tài sản hình thành trong tương lai gồm:

...

Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất”.

Nhận thấy, tại thời điểm nguyên đơn và bị đơn giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Dự án khu Trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh do công ty TNHH P là chủ đầu tư thì Dự án này chưa được UBND tỉnh Q giao đất, chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, việc công ty P ký hợp đồng góp vốn đầu tư xây dựng hạ tầng với bên góp vốn để sau này được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất chứ chưa phải là ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, do đó đủ cơ sở xác định lô đất LK05- 05 của dự án trên mới chỉ được hình thành trên bản vẽ của sơ đồ dự án chứ chưa hình thành trên thực tế và theo quy định trên thì lô đất LK05-05 trên không được coi là tài sản hình thành trong tương lai nên không được phép thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Đối chiếu với các quy định trên thì lô đất LK05- 05 trên không đủ điều kiện để chuyển nhượng quyền sử dụng đất (mua bán đất). Việc các đương sự thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi chưa có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vi phạm điều cấm của pháp luật.

Tại khoản 3 Điều 62 Luật kinh doanh bất động sn năm 2014 quy định: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản không được đồng thời vừa là nhà môi giới vừa là một bên thực hiện hợp đồng trong một giao dịch kinh doanh bất động sản”.

Thấy rằng trong giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất LK05- 05 trên, chị T1 vừa tham gia với vai trò là nhà môi giới, vừa tham gia với vai trò là người trực tiếp thực hiện giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất với tư cách là bên bán, do đó việc làm trên của chị T1 là vi phạm điều cấm của pháp luật.

Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội: “Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu. Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”.

Như vậy, giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị Đoàn Thị Thu T1 và chị Lê Biên T ngày 22/3/2021 không những vô hiệu về mặt hình thức mà còn vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án thấy, mặc dù chị L thừa nhận đã nhờ chị T1 môi giới bán lô đất LK05- 05 cho chị Lê Biên T và đã nhận đủ số tiền từ chị T1 chuyển lại sau khi chị T1 trừ chi phí môi giới, nhưng xét thấy, toàn bộ quá trình giao dịch mua bán lô đất LK05-05 trên là do chị T1 trực tiếp thực hiện với chị T nên chị T1 phải có trách nhiệm với chị T khi giao dịch đó bị vô hiệu.

Do đó có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên bố giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/3/2021 vô hiệu.

[2.3] Xét về hậu quả của hợp đồng vô hiệu Điều 131 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận...

...

4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường”.

Do hợp đồng (giao dịch) chuyển nhượng quyển sử dụng đất ngày 22/3/2021 giữa chị T1 và chị T vô hiệu, nên các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, trả lại cho nhau những gì đã nhận, cụ thể: chị Đoàn Thị Thu T1 phải hoàn trả chị Lê Biên T số tiền đã nhận là 1.422.000.000 đồng, tại phiên toà đại diện nguyên đơn xác nhận anh Đàm Quang D1 đã trả cho chị T số tiền 16.000.000 đồng nên chỉ yêu cầu bị đơn chị T1 phải hoàn trả số tiền là 1.422.000.000 đồng - 16.000.000 đồng = 1.406.000.000 đồng, vì vậy cần buộc bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn số tiền 1.406.000.000 đồng; chị Lê Biên T phải trả lại cho chị T1 toàn bộ tài liệu, giấy tờ bản gốc, gồm: Hợp đồng góp vốn đầu tư xây dựng hạ tầng để được nhận quyền sử dụng đất ở số 05LK05/2018 ngày 24/8/2018 giữa ông Nguyễn Trung K với Công ty TNHH P; phiếu thu ngày 24/8/2018 của ông Nguyễn Trung K; Đơn đăng ký v/v “Xin được tham gia góp vốn xây dựng cơ sở hạ tầng để được chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại dự án khu Trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H, tỉnh Quảng Ninh” của ông Nguyễn Trung K.

Xét về lỗi, các bên tham gia giao dịch đều có lỗi như nhau trong việc làm cho Hợp đồng (giao dịch) chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/3/2021 vô hiệu, mặt khác các bên tham gia giao dịch không yêu cầu bồi thường thiệt hại, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà về việc giải quyết vụ án và quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị L và chị M, là phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Nội dung khác:

- Mặc dù chị L, chị M thừa nhận đã nhờ chị T1 môi giới bán lô đất LK05-05 cho chị Lê Biên T và đã nhận đủ số tiền từ chị T1 chuyển lại sau khi chị T1 trừ chi phí môi giới, nhưng chị T1 không có yêu cầu độc lập đối với chị L và chị M, do đó trong trường hợp nếu chị T1 yêu cầu chị L và chị M phải trả lại số tiền mà chị T1 phải trả cho chị T thì chị T1 có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

- Đối với chị D là người được hường lợi phí môi giới do chị T1 trả là 11.000.000 đồng; chị T1 được hưởng phí môi mới từ chị L là 9.00.000 đồng, nếu chị D không tự hoàn trả cho chị T1 và chị T1 không hoàn trả cho chị L, thì chị T1 và chị L có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

- Đối với anh D1 là người được hưởng lợi phí môi giới do chị T1 trả là 16.000.000 đồng (trả thông qua chị D), lẽ ra anh D1 phải hoàn trả lại cho chị T1 số tiền này, nhưng anh D1 đã tự nguyện trả số tiền này cho chị Lê Biên T và chị T rút yêu cầu đòi chị T1 số tiền 16.000.000 đồng này, chị T1 không có ý kiến gì về việc này, nên Hội đồng xét xử ghi nhận việc tự nguyện trả tiền của anh D1 và khấu trừ cho chị T1 số tiền 16.000.000 đồng này trong tổng số tiền chị T1 phải trả cho chị T do giao dịch vô hiệu.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: bị đơn phái chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.

[6] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Cău c: khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 1, 2 Điều 228; khoản 2 Điều 244; Điều 235; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Điều 117; Điều 122; Điều 123; Điều 129; Điều 131; Điều 357; Điều 468 và Điều 502 Bộ luật Dân sự năm 2015. Điều 167; Điều 168 và Điều 188 của Luật đất đai năm 2013; Khoản 2 Điều 26, điểm b khoản 3 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tun xử:

1. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền 16.000.000 đồng (mười sáu triệu đồng).

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Biên T.

- Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 22/3/2021 giữa chị Lê Biên T với chị Đoàn Thị Thu T1 đối với lô đất LK05 - 05, diện tích 90m2 thuộc dự án khu Trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H (nay là TP .), tỉnh Quảng Ninh do công ty TNHH P làm chủ đầu tư vô hiệu.

- Buộc chị Đoàn Thị Thu T1 phải trả lại cho chị T số tiền 1.406.000.000 đồng (một tỷ, bốn trăm linh sáu triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Chị Lê Biên T phải trả lại cho chị Đoàn Thị Thu T1 toàn bộ tài liệu, giấy tờ bản gốc, gồm: Hợp đồng góp vốn đầu tư xây dựng hạ tầng để được nhận quyền sử dụng đất ở số 05LK05/2018 ngày 24/8/2018 giữa ông Nguyễn Trung K với Công ty TNHH P; phiếu thu ngày 24/8/2018 của ông Nguyễn Trung K; Đơn đăng ký v/v “Xin được tham gia góp vốn xây dựng cơ sở hạ tầng để được chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại dự án khu Trung tâm thương mại, dân cư tại xã T, huyện H (nay là thành phố H), tỉnh Quảng Ninh” của ông Nguyễn Trung K.

3. Về án phí:

- Chị Đoàn Thị Thu T1 phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch và 54.180.000 đồng (năm mươi bốn triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự.

- Trả lại cho chị Lê Biên T số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001715 ngày 31 tháng 5 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.

4. Về quyền kháng cáo: các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu số 12/2024 DS-ST

Số hiệu:DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:28/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về