TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 10/2024/DS-ST NGÀY 31/01/2024 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÀ VÔ HIỆU
Ngày 31 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 282/2023/TLST- DS ngày 23 tháng 10 năm 2023 về việc yêu cầu “tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 614/2023/QĐST-DS ngày 21 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phạm Hoàng P, sinh năm 1983; nơi cư trú: ấp H, xã K, huyện C, tỉnh An Giang. Có mặt.
2. Bị đơn:
2.1. Ông Châu Hồng H, sinh năm 1974; vắng mặt.
2.2. Bà Nguyễn Thị Như L, sinh năm 1974; vắng mặt.
Cùng nơi cư trú: ấp N, xã N, huyện C, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn ông P trình bày: Vào 9/6/2022 ông có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị Như L diện tích 8.047m2, loại đất trồng lúa do bà L đứng tên quyền sử dụng đất số H0031gB do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 17/3/2005 với số tiền 350.000.000đ, hợp đồng được công chứng chứng thực cùng ngày và ông đã giao tiền xong phía bà L đã giao cho ông bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số số H0031gB do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị Như L, ông chưa nhận đất. Khi ông thực hiện việc chuyển nhượng thì không chuyển quyền sử dụng đất được do tài sản bị Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới kê biên. Nay yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 9/6/2022 diện tích 8047m2 thuộc thửa đất số 1372, tờ bản đồ số 01 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Như L số H0031gB, ngày 17/3/2005 giữa ông với bà Nguyễn Thị Như L là vô hiệu. Yêu cầu bà L trả cho ông số tiền 350.000.000đ.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Như L, ông Châu Hồng H được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng bà L, ông H vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến và không hòa giải được.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Ý kiến về việc giải quyết vụ án hợp đồng chuyển nhượng đất giữa nguyên đơn và bị đơn được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận; hợp đồng được công chứng chứng thực theo quy định. Tuy nhiên quyền sử dụng đất của bị L đã bị Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới kê biên nên không thực hiện được việc chuyển nhượng nên ông P yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 188 Luật đất đai; Điều 123, 131 Bộ luật dân sự năm 2015, xem xét:
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/6/2022 giữa ông P và bà Nguyễn Thị Như L là vô hiệu.
Buộc bà Nguyễn Thị Như L có nghĩa vụ trả lại cho ông P số tiền 350.000.000 đồng.
Buộc ông Phạm Hoàng P trả lại cho bà Nguyễn Thị Như L giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số số H0031gB do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị Như L, diện tích 8.047m2 thuộc thửa đất số 1372, tờ bản đồ số 01.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn có nơi cư trú tại xã N, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
Tại phiên tòa nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện không yêu cầu ông Châu Hồng H cùng chịu trách nhiệm trong vụ án này. Yêu cầu này của nguyên đơn là phù hợp nghĩ nên chấp nhận.
[2] Về nội dung tranh chấp: Nguyên đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/6/2022 diện tích 8.047m2 thuộc thửa đất số 1372, tờ bản đồ số 01 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Như L số H0031gB, ngày 17/3/2005 giữa ông với bà Nguyễn Thị Như L là vô hiệu. Yêu cầu bà L trả cho ông số tiền 350.000.000đ.
Xét về hình thức và nội dung hợp đồng các bên không tuân thủ theo điểm c khoản 1 Điều 188 Luật đất đai 2013, hợp đồng được công chứng theo quy định pháp luật. Tuy nhiên quyền sử dụng đất số H0031gB, ngày 17/3/2005 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị Như L đã bị kê biên theo Quyết định số 25/QĐ-CC-THADS ngày 06/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới về việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất đối với diện tích 8.047m2 thuộc thửa đất số 1372, tờ bản đồ số 01 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Như L ngày 17/3/2005. Vì vậy việc các bên thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên là vi phạm điều cấm của luật. Nay nguyên đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là phù hợp với quy định Điều 123 Bộ luật dân sự 2015 nghĩ nên chấp nhận.
Quá trình thực hiện hợp đồng phía ông P đã giao cho bà L số tiền 350.000.000đ. Tòa án đã nhiều lần Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải triệu tập bà L nhưng bà L vắng mặt không có lý do. Xét thấy chứng cứ do ông P cung cấp là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 09/6/2022 được Văn phòng C1 chứng thực và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H0031gB, ngày 17/3/2005 nhưng phía bà L không có ý kiến phản đối nên chứng cứ nguyên đơn cung cấp là có cơ sở để xem xét.
Do hợp đồng chuyển nhượng là vô hiệu nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên kể từ thời điểm xác lập, đồng thời các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy định tại điều 131 Bộ luật dân sự 2015. Từ những cơ sở trên nghĩ nên tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông P và bà L là vô hiệu. Bà L có nghĩa vụ trả cho ông P số tiền 350.000.000đ. Ông P trả lại cho bà L giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số số H0031gB do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị Như L ngày 17/3/2005.
Nguyên đơn không yêu cầu bồi thường hợp đồng nên hội đồng xét xử không xem xét đến.
[4] Về án phí DSST: Bị đơn phải chịu án phí đối với phần thực hiện nghĩa vụ tài sản.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 123; Điều 131 Bộ luật dân sự 2015; Điều 188 Luật đất đai 2013; Điều 35; Điều 39; Điều 238; Điều 147; Điều 157; Điều 165; Điều 244; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu của Phạm Hoàng P về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 9/6/2022 diện tích 8047m2 thuộc thửa đất số 1372, tờ bản đồ số 01 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Như L số H0031gB ngày 17/3/2005 giữa ông Phạm Hoàng P với bà Nguyễn Thị Như L là vô hiệu.
Buộc bà Nguyễn Thị Như L có nghĩa vụ trả cho ông Phạm Hoàng P số tiền 350.000.000đ.
Buộc ông Phạm Hoàng P trả lại cho bà Nguyễn Thị Như L giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số số H0031gB do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho bà Nguyễn Thị Như L ngày 17//2005 diện tích 8047m2 thuộc thửa đất số 1372, tờ bản đồ số 01.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Hoàng P đối với ông Châu Hồng H.
Án phí DSST: bà Nguyễn Thị Như L phải chịu là 17.500.000đ.
Hoàn trả cho ông Phạm Hoàng P tiền tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai số 0014143 ngày 23/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh An Giang để xét xử phúc thẩm. Riêng ông C vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vô hiệu số 10/2024/DS-ST
Số hiệu: | 10/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 31/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về