TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 466/2023/DS-PT NGÀY 24/11/2023 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU CHẤM DỨT HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT
Trong các ngày 17 và 24 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 340/2023/TLPT-DS ngày 05 tháng 10 năm 2023 về việc "Tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật và tranh chấp mương thoát nước chung".
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 108/2023/DS-ST ngày 15 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 367/2023/QĐ-PT ngày 16 tháng 10 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 504/2023/QĐ-PT ngày 01 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Dương Quang H, sinh năm 1984; địa chỉ: số I đường L, tổ D, khu phố D, phường P, thành phố T, Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn: Bà Lê Thị Vân A, sinh năm 1985; địa chỉ: số I đường Đ, tổ D, khu phố D, phường P, thành phố T, Bình Dương; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1984; địa chỉ: số I đường L, tổ D, khu phố D, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Lê Thị Vân A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo đơn khởi kiện ngày 18/10/2021, đơn khởi kiện bổ sung ngày 22/3/2023, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Dương Quang H trình bày:
Ông Dương Quang H là chủ sử dụng thửa đất số 519, tờ bản đồ số 46, tọa lạc tại khu phố D, phường P, thành phố T, Bình Dương đã được Ủy ban nhân dân thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01893 vào ngày 22/6/2012. Bà Lê Thị Vân A là chủ sử dụng thửa đất số 522, tờ bản đồ số 46, đất tọa lạc tại khu phố D, phường P, thành phố T, Bình Dương đã được Ủy ban nhân dân thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01852 ngày 07/6/2012. Mương thoát nước chung có chiều rộng 0,5m và chiều dài 20,4m giáp phần đất bà Lê Thị Vân A quản lý sử dụng. Mương thoát nước này là mương thoát nước chung của hai bên gia đình và tất cả mọi người trong hẻm I, khu phố D, phường P, thành phố T. Năm 2015 đến nay, gia đình bà A lấn chiếm mương thoát nước, tự bao hàng rào sắt kiên cố xung quanh để sử dụng cho mục đích của gia đình bà A và làm sân riêng cho gia đình bà A, không ai có thể vào sử dụng được mương chung này. Để đảm bảo quyền lợi của gia đình nguyên đơn, nay nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lê Thị Vân A chấm dứt hành vi lấn chiếm mương nước chung trái pháp luật, tháo dỡ, di dời cống hộp tròn thoát nước đường kính 0,5m, dài 20,5m để trả lại diện tích mương thoát nước chung tổng diện tích 16,8m2 theo kết quả đo đạc thực tế (mặt trước là 0,78m và mặt sau là 0,84m chiều dài là 20,46m); yêu cầu bà Lê Thị Vân A tháo dỡ, di dời hàng rào xây tô cao lửng 01m, khung sắt 3cm x 6cm, cao 3m, chiều dài hàng rào 9,5m xây dựng trên mương thoát nước chung.
2. Tại bản tự khai ngày 03/3/2022, ngày 30/11/2022 quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn bà Lê Thị Vân A trình bày:
Năm 2015, gia đình bị đơn bà Lê Thị Vân A xây dựng nhà ở và trước khi xây dựng thì gia đình bị đơn có đặt vấn đề với ông H về việc đặt cống thoát nước thì ông H đồng ý, vì công việc bị đơn phải thường xuyên xa nhà nên thấy ông H xây nhà làm hàng rào tiếp giáp và khi đặt cống thoát nước thì bị đơn làm hàng rào sắt tạm phía trên để đảm bảo an ninh cho cả hai bên, vì với diện tích 0,5m mương nước chung mà không đặt ống cống thoát nước thì gây khó khăn cho việc vệ sinh đường thoát nước và nước thải sinh hoạt của các hộ dân phía sau chảy qua gây mùi hôi khó chịu, phía trước đường mương bị đơn có xây hàng rào và bức tường rào không gây ảnh hưởng đến việc thoát nước, hiện đường thoát nước này gia đình bị đơn và gia đình ông H cùng sử dụng sinh hoạt trong việc thoát nước. Từ trước đến nay, gia đình bị đơn không có xích mích, mâu thuẫn gì với gia đình ông H.
Nguyên đơn ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn chấm dứt hành vi lấn chiếm mương nước chung trái pháp luật, tháo dỡ, di dời cống hộp tròn thoát nước đường kính 0,5m; dài 20,5m để trả lại diện tích mương thoát nước chung có tổng diện tích 16,8m2 theo kết quả đo đạc thực tế và yêu cầu tháo dỡ, di dời hàng rào xây tô cao lửng 01m, khung sắt 3cm x 6cm, cao 3m; chiều dài hàng rào 9,5m xây dựng trên mương thoát nước chung là không đúng, diện tích đất bị đơn bà Lê Thị Vân A được Ủy ban nhân dân thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01852 ngày 07/6/2012, thửa đất 522, tờ bản đồ số 46. Ông Dương Quang H được Ủy ban nhân dân thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01893 ngày 22/6/2012, thửa đất 519, tờ bản đồ số 46, đất tọa lạc tại khu phố D, phường P, thành phố T, Bình Dương là hợp pháp, trước khi nhận chuyển nhượng đất thì chủ cũ là ông Đỗ Phi H1 có đơn xin điều chỉnh thửa đất 370, tờ bản đồ số 46 vào ngày 04/4/2012 để bỏ ra 0,5m; dài 45m và cạnh sau dài 25,3m làm mương thoát nước chung để điều chỉnh đúng hiện trạng thực tế theo biên bản kiểm tra địa chính ngày 29/11/2011 nêu rõ diện tích đất ông Đỗ Phi H1 bỏ đất làm mương chung diện tích đất còn lại như sau: tổng diện tích 477,6m2, HLBVM 33,6m2, đất đô thị: 60m2, đất trồng cây hàng năm 384m2. Hiện nay, thửa đất thửa đất 370, tờ bản đồ số 46 chủ cũ là ông Đỗ Phi H1 đã tách ra thành 04 thửa đất trong đó có thửa đất của bị đơn là thửa đất 522, tờ bản đồ số 46. Căn cứ Luật Thủy lợi, Luật Đất đai và thực tế sử dụng đất của bị đơn thì bị đơn không lấn chiếm đất của ông H. Do đó, bị đơn không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn C trình bày:
Ông Nguyễn Văn C thống nhất lời trình bày của bị đơn bà Lê Thị Vân A.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 108/2023/DS-ST ngày 15 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Dương Quang H về việc “Yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật và tranh chấp mương thoát nước chung”.
Buộc bị đơn bà Lê Thị Vân A phải có trách nhiệm tháo dỡ hàng rào kết cấu hàng rào xây tô lửng 1m, khung sắt hộp 3cm x 6cm, cao 3m x dài 9m.
Không chấp nhận yêu cầu tháo dỡ, di dời cống hộp tròn thoát nước đường kính chiều rộng 0,5m, chiều dài 20,4m trả lại diện tích đất mương thoát nước chung đo đạc thực tế là 16,8m2 theo kết quả đo đạc của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất Thủ Dầu M.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, về án phí, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi có bản án sơ thẩm, ngày 28/8/2023 bị đơn bà Lê Thị Vân A có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Lê Thị Vân A vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Nguyên đơn ông Nguyễn Quang H2 đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm: Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Nhận thấy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về nội dung: Nguyên đơn ông Dương Quang H khởi kiện yêu cầu bà Lê Thị Vân A phải có trách nhiệm tháo dỡ hàng rào xây tô lửng 1m, khung sắt hộp 3cm x 6cm, cao 3m x dài 9,5m trả lại không gian mương thoát nước; chấm dứt hành vi lấn chiếm mương thoát nước chung chiều rộng 0,5m, chiều dài 20,4m. Bị đơn xác định mương nước được thể hiện trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn, việc bị đơn đặt cống thoát nước không ảnh hưởng đến việc thoát nước của ông H cùng các hộ xung quanh và cũng không có lấn chiếm đất của ông Dương Quang H, không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của ông H.
[2] Hội đồng xét xử xét thấy: Theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị Vân A do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố T cung cấp thể hiện: Nguồn gốc đất của ông Đỗ Phi H1 được Ủy ban nhân dân thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH00549 ngày 29/9/2010 đối với thửa đất số 370, tờ bản đồ số 46, có tổng diện tích 502,6m2, (hướng Đông giáp đường đất ngang 6,5m). Theo biên bản kiểm tra địa chính ngày 29/12/2011 của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố T thể hiện thửa đất cũ số 370 tờ bản đồ số 46 được tách thành các thửa đất mới số 522, 523, 524, 525 tờ bản đồ số 46, có tổng diện tích là 477,6m2 (giảm 25,3m2 là mương nước). Ngày 04/4/2012, ông Đỗ Phi H1 có đơn xin xác nhận mương thoát nước tự mở được Ủy ban nhân dân phường P chứng thực ngày 07/4/2012 (hướng Đông giáp đường đất chiều ngang giảm còn 5,9m). Theo Công văn số 3058/UBND-VP ngày 15/11/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố T xác định bà Lê Thị Vân A được Ủy ban nhân dân thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH0185 ngày 07/6/2012, thửa đất số 522, tờ bản đồ số 46, hướng Bắc tiếp giáp mương thoát nước và trên diện tích đất mương thoát nước đo đạc thực tế 16,8m2 này thì bà Lê Thị Vân A đã đặt cống bê tông đường kính 0,5m vào năm 2015 không vi phạm kế hoạch sử dụng đất của địa phương, vẫn đảm bảo việc thoát nước của các hộ dân xung quanh. Theo biên bản xem xét, thẩm định ngày 29/4/2022 thể hiện quyền sử dụng thửa đất 519, tờ bản đồ số 46 được Ủy ban nhân dân thành phố T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22/6/2012 số CHO 1893 ngày 22/6/2012 cho ông Dương Quang H, hướng Đông giáp đường bê tông 04m và có cống thoát nước. Như vậy, việc thoát nước của thửa đất số 519, tờ bản đồ số 46 mà ông H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH01893 ngày 22/6/2012 không ảnh hưởng đến việc thoát nước chung. Bị đơn đặt cống mương thoát nước đo đạc thực tế có diện tích 16,8m2 là phù hợp theo quy định tại Điều 251 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Nguyên đơn ông H khởi kiện yêu cầu bà Lê Thị Vân A chấm dứt hành vi lấn chiếm mương thoát nước chung và tháo dỡ, di dời cống hộp tròn thoát nước đường kính chiều rộng 0,5m, chiều dài 20,4m trả lại diện tích đất mương thoát nước chung đo đạc thực tế là 16,8m2 nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm nên không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là phù hợp, ông H không kháng cáo nên phần quyết định này của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
[3] Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn tháo dỡ hàng rào xây tô lửng 01m, khung sắt hộp 3cm x 6cm, cao 3m x dài 9,5m: Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 29/4/2022 thể hiện trên một phần diện tích mương nước tranh chấp bị đơn có xây dựng hàng rào tô lửng 01m, khung sắt hộp 3cm x 6cm; cao 3m x dài 9,5m bị đơn bà Vân A xây dựng hàng rào sắt tạm trên một phần diện tích mương thoát nước chung để đảm bảo an ninh cho cả hai bên gia đình. Tuy nhiên, việc bị đơn bà Vân A xây dựng hàng rào không theo ranh giới thửa đất mà bà Vân A đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vi phạm về ranh giới đất nên việc nguyên đơn ông Dương Quang H khởi kiện yêu cầu bà Lê Thị Vân A phải có trách nhiệm tháo dỡ hàng rào xây tô lửng 01m, khung sắt hộp 3cm x 6cm; cao 3m x dài 9,5m trả lại diện tích đất mương thoát nước chung đo đạc thực tế là 16,8m2 theo kết quả đo đạc của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố T được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 175 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Tại “Bản tự nguyện cam kết” ngày 17/11/2023 và tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Vân A cam kết nếu trong quá trình thường trú tại địa chỉ 9 C, khu phố D, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương có văn bản hoặc thông báo của địa phương về việc ảnh hưởng tới kế hoạch sử dụng đất của địa phương liên quan tới “hàng rào xây tô lửng 01m, khung sắt hộp 3cm x 6cm; cao 3m x dài 9,5m” mà nguyên đơn ông H khởi kiện thì bà Vân A tự nguyện tháo dỡ. Xét thấy, cam kết này của bị đơn không được nguyên đơn đồng ý và cũng không phù hợp với quy định tại Điều 174 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.
Từ những phân tích trên, xét thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Vân A.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lê Thị Vân A.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 108/2023/DS-ST ngày 15 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bị đơn bà Lê Thị Vân A phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0000731 ngày 07/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật số 466/2023/DS-PT
Số hiệu: | 466/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về