Bản án về tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi chiếm đất, cản trở quyền sử dụng đất số 17/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 17/2022/DS-ST NGÀY 16/12/2022 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU CHẤM DỨT HÀNH VI CHIẾM ĐẤT, CẢN TRỞ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Vào ngày 16 tháng 12 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 51/2022/TLST-DS, ngày 06 tháng 10 năm 2021 về việc “Tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐST-DS ngày 24 tháng 10 năm 2022, và quyết định thay đổi thời gian xét xử ngày 16 tháng 11 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Niê Hờ R, sinh năm 1974. Địa chỉ: Buôn h, xã e, huyện s, tỉnh p. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Ksơr Y m (Ma ng), sinh năm 1956 và bà Nay Hờ P (Mí N). Địa chỉ: Buôn L, thị trấn H, huyện S, tỉnh P. Ông Ksơr Y M có mặt, bà Nay Hờ P đã chết.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/10/2021 và các lời khai có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn trình bày:

Bà Hờ R có một đám rẫy do ông cha khai hoang từ trước năm 1975 làm lúa rẫy tại Khu phố B, thị trấn H, huyện S, tỉnh P và được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất 213 , tờ bản đồ số 35, diện tích 7203,4 m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 869664 do UBND huyện Sông Hinh cấp ngày 13/7/2018, số vào sổ cấp GCN CH 07956 và thửa đất 198, tờ bản đồ số 35, diện tích 7629,5 m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 869663 do UBND huyện Sông Hinh cấp ngày 13/7/2018, số vào sổ cấp GCN CH 07955 cấp cho cá nhân bà Niê Hờ R.

Trong quá trình sử dụng đất đến năm 2019, ông Ksơr Y M và bà Nay Hờ P ở buôn L, thị trấn H, huyện S cho người ra trồng keo hết hai đám rẫy của bà Hờ Rối. Bà Rối có làm đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân thị trấn Hai Riêng, huyện Sông Hinh hoà giải nhưng không thành. Ông Ksơr Y M và bà Nay Hờ - đòi 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) mới trả lại đất.

Bà Hờ Rối khởi kiện yêu cầu Toà án buộc ông Ksơr Y M và bà Nay Hờ P phải chấm dứt toàn bộ hành vi chiếm đất, cản trở trái pháp luật đối với quyền sử dụng đất của bà Hờ R tại hai thửa đất số 198 và 213 tờ bản đồ số 35 nêu trên.

Bị đơn ông Ksơr Y M, bà Nay Hờ P cho rằng đất trên do gia đình ông khai hoang từ năm giải phóng 1975 sử dụng đến năm 1992 sau đó bỏ về Buôn L sinh sống nên bỏ hoang, sau đó ông Ma T cha của Hờ R xin làm, gia đình ông đã nhiều lần đòi lại đất nhưng gia đình Hờ R không trả đất.

Tại phiên toà:

Nguyên đơn bà Hờ Rối rút phần yêu cầu khởi kiện đối với bà Nay Hờ P vì bà Plao đã chết, yêu cầu Tòa án buộc ông Ksơr Y M phải chấm dứt toàn bộ hành vi chiếm đất, cản trở quyền sử dụng đất của bà Hờ R tại hai thửa đất 213, tờ bản đồ số 35, diện tích 7203,4 m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 869664 do UBND huyện Sông Hinh cấp ngày 13/7/2018, số vào sổ cấp GCN CH 07956 và thửa đất 198, tờ bản đồ số 35, diện tích 7629,5 m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 869663 do UBND huyện Sông Hinh cấp ngày 13/7/2018, số vào sổ cấp GCN CH 07955 cấp cho cá nhân bà Niê Hờ R.

Bị đơn ông Ksor Y M không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và tự ý bỏ về.

- Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Hinh phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Việc sử dụng đất của bà Hờ R được Nhà nước công nhận nên có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Ksơr Y M, bà Nay Hờ P có hộ khẩu thường trú tại Buôn L, thị trấn H, huyện S, tỉnh P chấm dứt hành vi chiếm đất, cản trở quyền sử dụng đất của bà Niê Hờ R tại Khu phố B, thị trấn H, huyện S. Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp là tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, cụ thể là “Tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi chiếm đất, cản trở quyền sử dụng đất” vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Sông Hinh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Căn cứ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 869664 do UBND huyện Sông Hinh cấp ngày 13/7/2018, số vào sổ cấp GCN CH 07956 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 869663 do UBND huyện Sông Hinh cấp ngày 13/7/2018, số vào sổ cấp GCN CH 07955 cấp cho cá nhân bà Niê Hờ Rối thì bà Hờ Rối được quyền sử dụng đất đối với cả hai thửa đất 198 và 213 tờ bản đồ số 35, tổng diện tích 14.832,9 m2 địa chỉ Khu phố B, thị trấn H, huyện S, nguồn gốc sử dụng là Công nhận quyền sử dụng đất như giao đất không thu tiền sử dụng đất.

Căn cứ kết quả xác minh nguồn gốc đất thì do gia đình bà Hờ R khai hoang trước năm 1975 đến nay, khoảng năm 1975 đến 1977 có cho ông Ksor Y M và bà Nay Hờ P canh tác, sau đó gia đình bà Hờ Rối lấy lại và canh tác cho đến nay.

Căn cứ kết quả đo đạc định giá tài sản thì phần diện tích đất tranh chấp thuộc thửa đất số 198, 213 tở bản đồ số 35 địa chỉ Khu phố B, thị trấn H, huyện S, tỉnh P đã công nhận quyền sử dụng đất cho bà Hờ Rối.

Căn cứ Điều 166 Luật đất đai thì quyền của người sử dụng đất được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai của mình. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Như vậy, quyền sử dụng đất của bà Hờ R tại các thửa đất 198, 213 tở bản đồ số 35 địa chỉ Khu phố B, thị H, huyện S, tỉnh P được pháp luật bảo hộ. Nếu ông Ksơr Y M, bà Nay Hờ P cho rằng mình là người có quyền sử dụng đất hợp pháp thì có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết theo trình tự thủ tục luật định, hành vi chiếm đất, cản trở quyền sử dụng đất Nhà nước đã công nhận cho người khác là trái pháp luật.

Tại phiên Toà, Nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với bà Nay Hờ P vì bà Hờ P đã chết; Xét yêu cầu này là tự nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc ông Ksơr Y M phải chấm dứt các hành vi chiếm đất, cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất của bà Niê Hờ R đối với toàn bộ thửa đất số 198, 213 tờ bản đồ số 35, tổng diện tích 14.832,9 m2 địa chỉ Khu phố B, thị trấn H, huyện S.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội; Căn cứ điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự; Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên ông M phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự không có giá ngạch và chi phí đo đạc, định giá tài sản.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 2 Điều 26; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 147, Điều 157Khoản 2 Điều 227, Khoản 1, Khoản 3 Điểu 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 12, 166 Luật đất đai 2013;

- Căn cứ Điều 164, 169 Bộ luật dân sự 2015;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Tuyên xử:

1. Về yêu cầu khởi kiện:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hờ R; Buộc ông Ksơr Y M phải chấm dứt hành vi chiếm đất, cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất của bà Niê Hờ Rối đối với toàn bộ thửa đất số 198, 213 tờ bản đồ số 35, tổng diện tích 14.832,9 m2 tại Khu phố B, thị trấn H, huyện S, tỉnh P.

- Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của bà Hờ R đối với bà Nay Hờ P.

2. Về chi phí định giá tài sản: Buộc ông Ksơr Y M phải chịu toàn bộ chi phí định giá tài sản là 5.798.000 đồng. Bà Niê Hờ R đã nộp đủ nên ông Ksơr Y M có nghĩa vụ trả cho bà Niê Hờ R toàn bộ số tiền trên.

3. Về án phí:

- Buộc ông Ksơr Y M phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Trả lại cho bà Niê Hờ R số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lại thu tiền số 0001013 ngày 06 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Hinh.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, 9; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi chiếm đất, cản trở quyền sử dụng đất số 17/2022/DS-ST

Số hiệu:17/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Hinh - Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về