TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 322/2022/DS-PT NGÀY 23/06/2022 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Trong ngày 23/6/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 132/2022/TLPT- DS ngày 11/05/2022 về việc “Tranh chấp về yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”.Do Bản án số 22/2022/DS-ST ngày 17/03/2022, của Tòa án nhân dân Quận S bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1977/2022/QĐ-PT ngày 23/5/2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 7163/2022/QĐ-PT ngày 10/6/2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị T1, sinh năm 1982. Địa chỉ: Số 5 đường E, phường T, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị T2, sinh năm 1994. Địa chỉ: Số 5 đường E, phường T, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền số 00008512 ngày 30/3/2021 – có đơn xin xét xử vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Thái H, sinh năm 1978. Địa chỉ: Số 05 (tầng trệt) đường E, phường T, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy giới thiệu số 35/2021/GGT-NDL ngày 15/11/2021, của Công ty Luật TNHH N – có mặt).
2. Người kháng cáo: Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Xuân M, sinh năm 1964. Địa chỉ: Số 219/88 đường M, phường S, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Nguyễn Thụy A, Luật sư Trợ giúp pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ: Số 470 đường N, phường O, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 05/4/2021, các ý kiến của nguyên đơn bà Huỳnh Thị T1 và người đại diện theo ủy quyền là bà Trần Thị T2 đã trình bày:
Vào lúc 19 giờ 45 phút ngày 05/7/2019, bà Huỳnh Thị T1 đang phụ bán hủ tiếu tại hẻm số 196 đường M, Phường O, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh thì ông Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1998, là con ruột của bà Nguyễn Thị Xuân M đến quán để ăn hủ tiếu. Ông Đ vô cớ gây sự và dùng đũa đâm vào mắt bà T1 khiến bà T1 bị mù một mắt bên phải, phải đưa đi cấp cứu.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận S đã thụ lý vụ án, đưa bà T1 đi giám định thương tật tại Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh cho kết quả tỷ lệ tổn thương cơ thể là 55%. Đồng thời, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận S đưa ông Đ đi giám định tâm thần tại Trung tâm Pháp y tâm thần Thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả giám định pháp y tâm thần kết luận: Ông Nguyễn Xuân Đ bị bệnh tâm thần phân liệt thể hoang tưởng giai đoạn đang tiến triển, mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Ngày 13/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận S đã ra Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh số 01/QĐ-VKS-Q6 đối với ông Nguyễn Xuân Đ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận S đã đưa ông Đ đi điều trị bắt buộc tại Viện Pháp y Tâm thần Trung ương B và ngày 07/7/2020, đã ra Thông báo số 1770/TB-ĐTTH về việc không khởi tố vụ án hình sự đối với vụ việc nêu trên.
Ngày 08/3/2021, Tòa án nhân dân Quận S đã ra Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 30/2021/QĐST-DS, tuyên bố ông Nguyễn Xuân Đ mất năng lực hành vi dân sự. Mọi giao dịch dân sự của ông Nguyễn Xuân Đ phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Theo quy định của pháp luật thì về trách nhiệm dân sự, người đại diện hợp pháp là người giám hộ của người tâm thần vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự cho gia đình nạn nhân. Đến nay, gia đình ông Đ không bồi thường bất kỳ khoản chi phí thiệt hại nào cho bà T1, kể cả tiền thuốc men, viện phí. Hành vi của ông Đ đã xâm phạm nghiêm trọng đến sức khỏe, tinh thần của bà T1. Hoàn cảnh gia đình của bà T1 nhiều khó khăn nên phải đi phụ bán hủ tiếu để có tiền trang trải cuộc sống. Giờ đây mắt bà T1 bị thương tật, bị mất việc làm nên cuộc sống gia đình càng thêm khó khăn. Bà T1 yêu cầu bà Nguyễn Thị Xuân M là người giám hộ của ông Nguyễn Xuân Đ bồi thường cho bà T1 tổng số tiền là 94.675.000 đồng (Chín mươi bốn triệu sáu trăm bảy mươi lăm nghìn đồng), bao gồm: Chi phí điều trị, thuốc men 1.675.000 đồng; Thu nhập bị mất trong thời gian điều trị và hồi phục sức khỏe tính từ ngày 06/7/2019 đến ngày 06/9/2019 là 13.500.000 đồng; Chi phí giám định tâm thần đối với ông Nguyễn Xuân Đ tại Viện Pháp y Tâm thần Trung ương B 5.000.000 đồng; Thiệt hại về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại khoản 2 Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015 là: 1.490.000 đồng x 50 tháng = 74.500.000 đồng. Trường hợp Bà Nguyễn Thị Xuân M đồng ý bồi thường một lần thì bà T1 đồng ý giảm 50% mức bồi thường thiệt hại về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm, tương đương số tiền giảm là 37.250.000 đồng. Tổng số tiền yêu cầu sau khi giảm là 57.425.000 đồng. Nếu bà M không đồng ý thì bà T1 vẫn giữ nguyên yêu cầu theo mức ban đầu là 94.675.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn là bà Nguyễn Thị Xuân M trình bày: Bà là mẹ ruột của Nguyễn Xuân Đ. Từ lúc nhỏ, sức khỏe của Đ không tốt, thường hay bị sốt, học hành tiếp thu không nhanh cùng các bạn cùng lứa tuổi. Năm 2016, Đ phát bệnh tâm thần và được đưa vào Bệnh Viện T Thành phố Hồ Chí Minh điều trị được một thời gian sau đó thì điều trị ngoại trú. Ngày 05/7/2019, Đ đi ăn hủ tiếu tại hẻm số 196 đường M, Phường O, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình ăn uống, giữa Đ và người phụ bán quán là bà Huỳnh Thị T1 có xảy ra cự cãi. Khi Đ đang ăn thì bà T1 tiến đến chỗ Đ đang ngồi, sẵn đang cầm đũa trên tay nên quơ trúng vào mắt bà T1 dẫn đến đũa bị gãy và gây ra thương tích cho bà T1. Khi sự việc xảy ra bà M không có mặt chỉ nghe người khác nói lại. Sự việc trên đã được Công an Quận S tiến hành giải quyết. Ngày 08/3/2021, Tòa án nhân dân Quận S đã ra Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 30/2021/QĐST-DS tuyên bố Nguyễn Xuân Đ mất năng lực hành vi dân sự. Hiện nay đang được điều trị bắt buộc tại Viện Pháp y Tâm thần Trung ương B.
Nay bà Huỳnh Thị T1 yêu cầu bà M là người giám hộ của Nguyễn Xuân Đ bồi thường thiệt hại với tổng số tiền là 94.675.000 đồng, bà M không có khả năng bồi thường. Bởi vì bản thân đã hết tuổi lao động, lại mắc bệnh tiểu đường nên sức khỏe yếu. Hiện nay, bà M không có thu nhập gì thêm ngoài số tiền trợ cấp 570.000 đồng từ việc kiêm nhiệm chức vụ Tổ trưởng Tổ dân phố và Chi hội trưởng Chi hội Chữ thập đỏ tại địa phương. Ngoài ra, bà M thuộc diện hộ nghèo theo Giấy chứng nhận ngày 31/5/2021, của UBND phường S, Quận S. Cuộc sống hai mẹ con hiện nay rất khó khăn. Bà M đồng ý bồi thường cho bà Huỳnh Thị T1 03 khoản: Chi phí điều trị, thuốc men 1.675.000 đồng; Chi phí giám định tâm thần của Nguyễn Xuân Đ tại Viện Pháp y Tâm thần Trung ương B là 5.000.000 đồng; Thu nhập bị mất trong thời gian điều trị và phục hồi sức khỏe tính từ ngày 06/7/2019 đến ngày 06/9/2019 bà T1 yêu cầu là 13.500.000 đồng chỉ đồng ý 5.000.000đ; tổn thất tinh thần chỉ đồng ý 9.000.000đ. Tổng số tiền là 20.175.000 đồng và đồng ý làm tròn là 21.000.000 đồng. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm là 74.500.000 đồng, bà M không đồng ý do vượt quá khả năng chi trả.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2022/DS-ST ngày 17/3/2022, Tòa án nhân dân Quận S đã xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị T1.
1. Buộc bà Nguyễn Thị Xuân M bồi thường cho bà Huỳnh Thị T1 tổng số tiền là 42.525.000 đồng (Bốn mươi hai triệu năm trăm hai mươi lăm ngàn đồng). Trong đó: Tiền thuốc và viện phí là 1.675.000 đồng; Tiền giám định tâm thần đối với ông Nguyễn Xuân Đ là 5.000.000 đồng; Tiền mất thu nhập của bà Huỳnh Thị T1 trong thời gian điều trị là 13.500.000 đồng và tiền bồi thường tổn thất về tinh thần là 22.350.000 đồng.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị T1 về khoản tiền bồi thường tổn thất về tinh thần là 52.150.000 đồng. Thời hạn bồi thường: Bồi thường một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn quyết định khoản tiền lãi theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, lãi suất chậm trả tương ứng với thời gian và khoản tiền chưa thi hành án và quyền kháng cáo.
Ngày 30/03/2022 và ngày 04/04/2022, bị đơn bà Nguyễn Thị Xuân M làm đơn kháng cáo không đồng ý bản án số 22/2022/DS-ST ngày 17/3/2022 của Tòa án nhân dân Quận S, buộc bà phải bồi thường cho nguyên đơn bà Huỳnh Thị T1 số tiền mất thu nhập là 13.500.000đ; tiền tổn thất tinh thần 22.350.000đ (hai mươi hai triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng). Bà M chỉ đồng ý tiền thuốc 1.675.000đ; tiền giám định 5.000.000đ; tiền mất thu nhập 5.000.000đ; tiền tổn thất tinh thần 9.000.000đ = 20.675.000đ và đồng ý làm tròn thành 21.000.000đ. Với các lý do chính: Không có ý kiến của bác sĩ cho bà T1 nghỉ 02 tháng do vết thương. Giấy ra viện của bà T1 ngày 9/7/2019 do Bệnh viện C cấp không chỉ định bà T1 phải tám khám tại bất cứ cơ sở y tế nào. Kết quả CT-Scan sọ não, hốc mắt ngày 15/8/2019 của Phòng khám V không có bất cứ tổn thương nào đến nhãn cầu, hốc mắt, hộp sọ, tai, xoang. Cho thấy tình trạng của bà T1 hoàn toàn bình thường. Lời khai người làm chứng bà Từ Thu Y ngày 17/02/2019, ông Dương Thanh N ngày 18/02/2022, không có bất cứ xác nhận nào của cơ quan chính quyền. Bản án cho rằng bà T1 phải nghỉ 02 tháng để phục hồi vết thương là không hợp lý, không hợp tình, không hợp chứng cứ trong hồ sơ. Về mức bồi thường tinh thần 15 tháng lương = 22.350.000đ, thương tích 55% chỉ là thương tích tạm thời tại lúc xảy ra sự việc. Bà M có nộp đơn yêu cầu giám định lại vết thương của bà T1, nhưng tòa án không nhận đơn. Bản án cho rằng vết thương ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và có thể có di chứng lâu dài, nhưng không dựa vào kết quả thăm khám do chính bà T1 nộp mà chỉ dựa vào mức thương tích ban đầu là thiếu khách quan và không có căn cứ vào chứng cứ trong hồ sơ.
Tại phiên toà phúc thẩm: Các đương sự không cung cấp chứng cứ mới. Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện; bị đơn không rút đơn kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Ngày 06/6/2022, bị đơn có đơn đề nghị Tòa án trưng cầu giám định mắt phải của bà T1 để biết tỷ lệ tổn thương hiện nay. Đề nghị Hội đồng xét xử dừng phiên tòa và trưng cầu giám định lại tỷ lệ thương tật của bà T1.
Ý kiến quan điểm Luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Giữ nguyên ý kiến và yêu cầu tại đơn kháng cáo. Bị đơn đồng ý mức thu nhập của nguyên đơn 6 triệu/tháng và nghỉ không làm việc trong 05 ngày. Không có chứng cứ nào chứng minh bị đơn phải nghỉ việc trong hai tháng để phục hồi sức khỏe. Vết thương của bà T1 theo kết quả CT-Scan sọ não, hốc mắt ngày 15/8/2019, của Phòng khám V không có bất cứ tổn thương nào đến nhãn cầu, hốc mắt, hộp sọ, tai, xoang. Cho thấy tình trạng của bà T1 hoàn toàn bình thường nên tỷ lệ tổn thương 55% của bà T1 là cao và số tiền tổn thất tinh thần là không phù hợp. Hoàn cảnh của bà M khó khăn chỉ đồng ý tiền bồi thường tổn thất tinh thần 9.000.000đ ; tiền mất thu nhập 5000.000đ là hợp lý nên đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm. Bị đơn bà Nguyễn Thị Xuân M đồng ý với ý kiến của Luật sư.
Ý kiến Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Không đồng ý kháng cáo của bị đơn và ý kiến của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn. Tỷ lệ thương tật 55% của nguyên đơn đã được trưng cầu kết luận đúng quy định pháp luật. Do bị thương phần mắt nên phải đi tái khám, hiện nay mắt bà T1 bị mờ, bản thân là dân tộc hoàn cảnh gia đình khó khăn từ khi bị gây thương tích đến nay chưa được bồi thường. Đề nghị Hội đồng xét xử y án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký; các đương sự đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: Căn cứ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định Nguyễn Xuân Đ là con ruột của bà Nguyễn Thị Xuân M. Ngày 05/7/2019, Đ dùng đũa đâm vào mắt phải bà Huỳnh Thị T1 gây thương tích 55% theo thông báo kết luận giám ngày 15/7/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận S. Do Đ là người bị tâm thần nên bà M là người giám hộ duy nhất phải chịu trách nhiệm giám sát nhưng không giám sát lỗi thuộc về bà M nên phải có trách nhiệm bồi thường cho bà T1. Lý do kháng cáo của bị đơn không có cơ sở, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng:
- Đơn kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Xuân M làm trong thời hạn luật định nên được chấp nhận.
- Về xác định quan hệ tranh chấp: Từ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm” là đúng pháp luật.
- Về việc vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ngày 22/6/2022, bà Trần Thị T2 có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn xét xử vụ án.
- Về yêu cầu Hội đồng xét xử ngừng phiên tòa và trưng cầu giám định lại tỷ lệ thương tích của bị đơn: Căn cứ các Điều 103, 259 của Bộ luật tố tụng dân sự, không thuộc trường hợp phải tạm ngừng phiên tòa để trưng cầu giám định lại.
[2] Về nội dung kháng cáo: Kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Xuân M và ý kiến của Luật sư đề nghị sửa án sơ thẩm về khoản tiền tổn thất tinh thần 22.350.000đ và mất thu nhập 13.500.000đ là quá cao chỉ đồng ý bồi thường tiền mất thu nhập 5.000.000đ; tổn thất tinh thần 9.000.000đ với các lý do đã nêu tại đơn kháng cáo và tại phiên tòa. Yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định lại tỷ lệ thương tích của nguyên đơn bà T1, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị đơn bà Nguyễn Thị Xuân M hoàn toàn thừa nhận Nguyễn Xuân Đ là con ruột của mình và bị tâm thần, khoảng 19 giờ 45 phút ngày 05/7/2019 đã có hành vi dùng đũa đâm vào mắt phải bà Huỳnh Thị T1 gây thương tích. Theo Giấy ra viện ngày 09/7/2019 của Bệnh viện C (BL 63) đã thể hiện bà T1 bị tổn thương dây thần kinh thị giác và đường đi (Mắt phải: Vết thương mi trên – Bệnh lý thần kinh thị chấn thương. Chấn thương đụng dập nhãn cầu, liệt III) và phải nhập viện điều trị thương tích từ ngày 05/7/2019 đến ngày 09/7/2019. Theo Thông báo kết luận giám định số 1804/TB-ĐTTH ngày 15/7/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận S, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích Nguyễn Xuân Đ gây ra cho bà T1 là 55% là theo đúng trình tự quy định của pháp luật, không có cơ sở cho rằng bà T1 không có tổn thương mắt phải và tỷ lệ thương tích cao như kháng cáo của bị đơn.
[2.1] Xét: Theo Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số 30/2021/QĐST-DS ngày 08/3/2021, của Tòa án nhân dân Quận S đã tuyên bố Nguyễn Xuân Đ là người mất năng lực hành vi dân sự. Như vậy ông Đ không thể nhận thức được hành vi gây thương tích cho bà T1 nên lỗi hoàn toàn thuộc về bà Nguyễn Thị Xuân M là người đại diện theo pháp luật duy nhất phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do ông Đ gây ra theo quy định tại khoản 3 Điều 586 của Bộ luật dân sự năm 2015. Tỷ lệ tổn thương mắt phải của bà T1 là 55% nên không thể làm việc ngay sau khi phẫu thuật được, cần phải nghỉ ngơi để điều trị và phục hồi sức khỏe trong thời gian 02 tháng là hợp lý. Về thiệt hại tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm với mức độ thương tích của bà T1 55% là nghiêm trọng, vị trí bị tổn thương ở mắt đã làm ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và sức khỏe tinh thần của bà T1. Tòa sơ thẩm đã xét hậu quả xảy ra là ngoài mong muốn của các bên. Bà M có hoàn cảnh kinh tế rất khó khăn, thuộc diện hộ nghèo; không có công việc ổn định nên chỉ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Xuân M phải bồi thường khoản tiền bù đắp về tổn thất tinh thần cho nguyên đơn bà T1 15 tháng lương cơ sở là 22.350.000 đồng; tiền mất thu nhập của trong thời gian điều trị và hồi phục sức khỏe tính từ ngày 06/7/2019 đến ngày 06/9/2019 là 13.500.000 đồng, cộng với tiền tiền thuốc 1.675.000đ; tiền giám định 5.000.000đ. Tổng cộng bà Nguyễn Thị Xuân M phải bồi thường cho bà Huỳnh Thị T1 số tiền là: 42.525.000 đồng là hợp lý theo quy định tại các Điều 584, 590 của Bộ luật dân sự. Vì vậy, lý do kháng cáo của bị đơn đưa ra chỉ đồng ý bồi thường 5.000.000đ tiền mất thu nhập; 9.000.000đ tổn thất tinh thần cho nguyên đơn là không có cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm tuyên bị đơn phải thanh toán một lần các khoản tiền phải bồi thường ngay sau khi Bản án phát sinh hiệu lực pháp luật là không đúng quy định tại Điều 6, 7, 7a Luật Thi hành án dân sự, cấp phúc thẩm cần điều chỉnh lại, cả phần quyết định cho chặt chẽ hơn.
[2.2] Từ các phân tích nhận định nêu trên, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo và quan điểm Luật sư của bị đơn. Chấp nhận quan điểm Luật sư của nguyên đơn và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận S.
[2.2] Về án phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm: Theo quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bà Nguyễn Thị Xuân M thuộc hộ nghèo và có đơn đề nghị được miễn án phí nên được chấp nhận. Hoàn trả lại cho nguyên đơn bà Huỳnh Thị T1 số tiền 2.366.875đ theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2019/0038665 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận S (người nộp tiền Trần Thị T2)
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 296 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 57, Điều 584, 586 và Điều 590 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị Xuân M, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 22/2022/DSST ngày 17 tháng 03 năm 2022, của Tòa án nhân dân Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị T1.
1. Buộc bà Nguyễn Thị Xuân M bồi thường cho bà Huỳnh Thị T1 tổng số tiền bị thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là 42.525.000 đồng (gồm: Tiền thuốc và viện phí 1.675.000 đồng; tiền giám định tâm thần của ông Nguyễn Xuân Đ 5.000.000 đồng; tiền mất thu nhập của bà T1 trong thời gian điều trị phục hồi sức khỏe 13.500.000 đồng; tiền bồi thường tổn thất về tinh thần 22.350.000 đồng ). Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Án phí dân sự sơ thẩm, Án phí phúc thẩm: Nguyên đơn, bị đơn không phải chịu. Hoàn trả lại cho nguyên đơn bà Huỳnh Thị T1 số tiền 2.366.875đ theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2019/0038665 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận S (người nộp tiền Trần Thị T2) Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm số 322/2022/DS-PT
Số hiệu: | 322/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về