Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 72/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 72/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Nước - tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 54/2022/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2022 về việc: “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 62/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Quốc K, sinh năm 1985. (có mặt) Địa chỉ: Ấp C, xã P, huyện C, tỉnh C .

2. Bị đơn: Chị Sơn Thị B, sinh năm 1988. (vắng mặt).Địa chỉ: Ấp C, xã P, huyện C, tỉnh C .

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn anh Trần Quốc K trình bày:

- Về hôn nhân: Vào năm 2011 anh K và chị B qua thời gian tìm hiểu và đi đến hôn nhân, có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Hưng Tây – huyện Phú Tân vào ngày 19/01/2011.

Trong quá trình sinh sống vợ chồng thường cự cãi với nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không thể hàn gắn quan hệ hôn nhân, đã ly thân từ năm 2021 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, nên anh K yêu cầu được ly hôn với chị Sơn Thị B.

- Về con chung: Có 02 người con chung tên Trần Quốc Huy - sinh ngày 14/11/2011 và cháu Trần Tố Nghi – sinh ngày 14/9/2017. Hiện nay cháu Huy đang sống với chị B, còn cháu Nghi đang sống chung với anh K, khi ly hôn anh K yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nghi, cháu Huy có nguyện vọng theo ai thì người đó nuôi; không đặt ra cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ thu: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Chị Sơn Thị B được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị B không tham gia và cũng không có văn bản trình bày ý kiến của mình về việc anh K yêu cầu ly hôn và nuôi con.

* Tại phiên tòa:

- Anh Trần Quốc K trình bày: Anh K yêu cầu xin ly hôn với chị Sơn Thị B. Về con chung: Anh yêu cầu được nuôi cháu Trần Tố Nghi, cháu Trần Quốc Huy có nguyện vọng theo ai thì người đó nuôi, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ thu: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Chị Sơn Thị B vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Sơn Thị B được triệu tập hợp lệ xét xử lần 2 nhưng chị B vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt chị Sơn Thị B.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Anh K và chị B kết hôn và đăng ký kết hôn tại UBND xã Tân Hưng Tây – huyện Phú Tân theo giấy chứng nhận kết hôn số 11/2011 ngày 19/01/2011, nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

Theo lời trình bày của anh K: Vợ chồng chung sống không hợp tính nhau dẫn đến mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, hôn nhân không thể kéo dài, nên anh K yêu cầu ly hôn với chị B. Chị B không có văn bản trình bày ý kiến của mình về yêu cầu ly hôn của anh K, qua đó cho thấy chị B không có thiện chí muốn hàn gắn mối quan hệ hôn nhân giữa hai người. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh K và chị B đã đến mức trầm trọng không thể kéo dài, nên Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Trần Quốc K đối với chị Sơn Thị B.

[2.2] Về con chung: Có 02 người con chung tên Trần Quốc Huy - sinh ngày 14/11/2011 và cháu Trần Tố Nghi – sinh ngày 14/9/2017. Hiện nay cháu Huy đang sống với chị B, còn cháu Nghi đang sống chung với anh K, khi ly hôn anh K yêu cầu được nuôi dưỡng cháu Nghi, cháu Huy có nguyện vọng theo ai thì người đó nuôi; không đặt ra cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử nhận định: Cháu Huy đang sống chung với chị B và cháu có nguyện vọng sống chung với chị B, còn cháu Nghi đang sống chung với anh K, 02 cháu đang có cuộc sống ổn định và phát triển bình thường; Đối với chị B không có ý kiến về yêu cầu nuôi con của anh K; để tránh việc thay đổi môi trường sinh sống của 02 cháu. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Trần Quốc Huy cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Trần Tố Nghi cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng; không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm con để cản trợ hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung và nợ thu: Đương sự không đặt ra yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc anh K phải chịu án phí với số tiền là 300.000 đồng, được trừ phần tạm ứng án phí đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Trần Quốc K đối với chị Sơn Thị B.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Quốc Huy - sinh ngày 14/11/2011 cho chị Sơn Thị B trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Trần Tố Nghi – sinh ngày 14/9/2017 cho anh Trần Quốc K trực tiếp nuôi dưỡng; không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm con để cản trợ hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ thu: Đương sự không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Buộc anh Trần Quốc K phải chịu án phí với số tiền là 300.000 đồng, được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0007730 ngày 20 tháng 01 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Nước, anh K đã nộp xong án phí.

5. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, vắng mặt thì thời hạn kháng cáo kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 72/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:72/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về