Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 03/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 03/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/01/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 220/2021/TLST - HNGĐ, ngày 14 tháng 5 năm 2021 về việc Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 203/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 03 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mai C - sinh ngày: 15/01/2000. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

-Bị đơn: Anh Lê Văn Q - Sinh năm: 1988. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Vinh B, xã Ngọc Th, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn - Chị Nguyễn Thị Mai C trình bày: Chị và anh Lê Văn Q thông qua người mai mối, được gia đình tổ chức lễ cưới vào năm 2017. Vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Ngọc Th, huyện G, tỉnh Kiên Giang. Sau khi cưới, anh chị chung sống hạnh phúc khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn do không phù hợp tính ý, vợ chồng thường cãi nhau, không thống nhất ý kiến trong việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình. Chị và anh Q đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2020 cho đến nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau, mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Nay chị C yêu cầu ly hôn với anh Q.

Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Hải Đ - sinh ngày: 19/9/2018. Hiện cháu Đăng đang chung sống với anh Q. Chị C đồng ý giao con cho anh Q tiếp tục nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Q để chị trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị C cũng như tham gia các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng anh Q không nộp bản tự khai cho Tòa án, không đến Tòa án để tham gia giải quyết vụ kiện.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về tố tụng kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử tiến hành nghị án. Đối với những người tham gia tố tụng, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt do bận làm ăn xa, ảnh hưởng tình hình dịch bệnh, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp. Về thời hạn chuẩn bị xét xử còn vi phạm, cần khắc phục vi phạm trong thời gian tới.

Về nội dung: Xét thấy mâu thuẫn giữa chị C và anh Q đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị C. Về con chung, cháu Hải Đ hiện đang sống ổn định với anh Q hiện tại anh Q đảm bảo các đều kiện nuôi dạy và chăm sóc con, chị C tự nguyện đồng ý giao con cho anh Q tiếp tục nuôi dưỡng nên đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình xử giao cháu Lê Hải Đăng - sinh ngày:

19/9/2018 cho anh Q tiếp tục nuôi dưỡng, do anh Q không thể hiện ý kiến về việc yêu cầu chị C phải cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung, đương sự không yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy.

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Mai C khởi kiện xin ly hôn, nuôi con chung với anh Lê Văn Q đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình - xin ly hôn, nuôi con được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn có nơi cư trú tại xã Ngọc Th, huyện G nên theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Q với tư cách là bị đơn, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do. Chị C có đơn xin xét xử vắng mặt do bận làm ăn xa, ảnh hưởng của dịch bệnh. Xét thấy sự vắng mặt của các đương sự không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mai C và anh Lê Văn Q cưới nhau vào năm 2017, anh chị có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Ngọc Th, huyện G, tỉnh Kiên Giang chứng nhận kết hôn nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Chị C xác định cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên mâu thuẫn không phù hợp tính ý, không quan tâm chăm sóc nhau. Chị và anh Q nhiều tự hòa giải nhưng không đạt kết quả. Từ đó, vợ chồng không còn chung sống từ tháng 05 năm 2020 cho đến nay.

Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng Ca sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.....”. Nhưng anh chị đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng, không quan tâm, chăm sóc nhau dẫn đến tình trạng hôn nhân của anh chị ngày càng mâu thuẫn trầm trọng.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Q không trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị C và không đưa ra được biện pháp giải quyết mâu thuẫn vợ chồng, không có thiện chí hòa giải, hàn gắn mâu thuẫn.

Theo kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi anh chị cư trú xác định vợ chồng anh Q - chị C chị đã phát sinh mâu thuẫn khoảng hơn một năm nhưng không trình báo hay yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết. Hiện anh chị đang đi làm ăn xa nhưng vẫn thường xuyên trở về địa phương, liên lạc với gia đình. Chị C vẫn cương quyết ly hôn nên có đủ căn cứ để xác định mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của chị C là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Mai C được ly hôn với anh Lê Văn Q.

[2.2] Về con chung: Căn cứ vào lời trình bày của chị C và Giấy khai sinh có cơ sở xác định trong quá trình chung sống chị C và anh Q có 01 con chung tên Lê Hải Đ - sinh ngày: 19/9/2018. Hiện cháu Đ đang chung sống với anh Q. Chị C đồng ý giao con cho anh Q tiếp tục nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy cháu Đ hiện do anh Q trực tiếp nuôi dưỡng, anh Q đảm bảo các điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng con, chị C tự nguyện giao con cho anh Q tiếp tục nuôi dưỡng. Sau khi xem xét quyền lợi mọi mặt của con, căn cứ khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, xử giao cháu Lê Hải Đ - sinh ngày: 19/9/2018 cho anh Q tiếp tục nuôi dưỡng.

Do anh Q không yêu cầu chị C cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Chị C được quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

[2.3] Về tài sản và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[3] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí;

Án phí ly hôn sơ thẩm chị Nguyễn Thị Mai C phải nộp là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0002279 ngày 14/5/2021 của C cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Mai C được ly hôn với anh Lê Văn Q.

2. Về con chung: Giao cháu Lê Hải Đ - sinh ngày: 19/9/2018 cho anh Q tiếp tục nuôi dưỡng.

Chị C được quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm chị Nguyễn Thị Mai C phải nộp là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0002279 ngày 14/5/2021 của C cục thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Báo cho các đương sự biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 03/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về