TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 162/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Ngày 14 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 372/2022/TLST-HN ngày 11 tháng 7 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 175/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
1/. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Thúy Vy, sinh năm 2002 Địa chỉ: ấp CM, xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu
2/. Bị đơn: Anh Lê Minh T, sinh năm 1994 Địa chỉ: ấp CM, xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu (Chị V có đơn xin vắng mặt, anh T vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 11/7/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trần Thị Thúy Vy trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Lê Minh T cưới nhau vào khoảng năm 2020, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐT vào ngày 22/10/2020 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
Nguyên nhân ly hôn theo chị V xác định: thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng sau đó một thời gian thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Lý do là do chồng chị không lo làm ăn, mà thường xuyên chởi bời gây nên nợ nần, vợ chồng anh chị bất đồng quan điểm sống, nên thường xuyên cãi nhau. Vợ chồng anh chị đã ly thân khoảng 08 tháng qua. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng cũng không thể hàn gắn lại được và chị cũng không còn tình cảm gì với chồng chị, nên chị yêu cầu xin được ly hôn với chồng chị là anh Lê Minh T.
Về quan hệ con chung: Vợ chồng anh chị có một người con chung tên Lê Như H, sinh ngày 05/6/2020. Từ lúc vợ chồng ly thân thì con sống cùng với chị đến nay. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: chị V xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung. Khi ly hôn chị Lãnh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Đối với anh Lê Minh T: Mặc dù anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh T vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh T theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Lê Minh T chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.
Về nội dung vụ án: giữa chị V và anh T kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị V được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về con chung: Từ lúc chị V và anh T ly thân thì con là Lê Như H, sinh ngày 05/6/2020 sống cùng với chị V đến nay. Chị V vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giao người con là Lê Như H, sinh ngày 05/6/2020 cho chị V được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.
Vấn đề cấp dưỡng nuôi con do chị V không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn chị V và anh T không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Về án phí thì chị V phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: chị V có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh T. Anh T có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.
Chị V có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị V.
Anh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh T vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh T.
[2] Về nội dung vụ án: giữa chị V và anh T kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân xã ĐT cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 22/10/2020 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Xét yêu cầu ly hôn của chị V đối với anh T thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị V và anh T lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân từ cách đây khoảng hơn 08 tháng. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Chị V cũng xác định hiện tại không còn tình cảm với anh T. Điều này chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của chị V và anh T là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị V đối với anh T là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về nuôi con chung: Từ lúc chị V và anh T ly thân thì con là Lê Như H, sinh ngày 05/6/2020 sống cùng với chị V đến nay. Chị V vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, đồng thời nguyện vọng của người con là Lê Như H, sinh ngày 05/6/2020 cũng mong muốn được tiếp tục sống cùng với chị V. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao người con là Lê Như H, sinh ngày 05/6/2020 cho chị V được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.
Vấn đề cấp dưỡng nuôi con do chị V không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị V và anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận, Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Thúy Vy; Xử cho chị Trần Thị Thúy Vy được ly hôn với anh Lê Minh T.
2/. Về nuôi con chung: Giao người con là Lê Như H, sinh ngày 05/6/2020 cho chị Trần Thị Thúy Vy được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.
Anh T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.
Chị V không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh T.
3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.
4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: chị Trần Thị Thúy Vy phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009261 ngày 11 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Trần Thị Thúy Vy và anh Lê Minh T biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp xin ly hôn số số 162/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 162/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về