Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 88/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 88/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 29 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 193/2022/TLST-HN ngày 22 tháng 4 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Anh Lê Đức Tr, sinh năm 1988 Địa chỉ: Tổ 2B, khu phố 1, thị trấn TT, huyện BTU, tỉnh Bình Dương

2/. Bị đơn: Chị Dương Thị Ng, sinh năm 1986 Địa chỉ: ấp BĐ, xã LDĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Anh Tr có đơn xin vắng mặt, chị Ng vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/3/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Lê Đức Tr trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh và chị Dương Thị Ng cưới nhau vào khoảng năm 2007, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LN, huyện ĐQ, tỉnh Đồng Nai vào ngày 27/8/2007 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo anh Tr xác định: thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng thời gian gần đây thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, dẫn đến cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Vợ chồng anh chị ly thân cách đây khoảng 02 năm. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng cũng không thể hàn gắn lại được và anh cũng không còn tình cảm với vợ anh nên anh yêu cầu xin được ly hôn với vợ anh là chị Dương Thị Ng.

Về quan hệ con chung: anh Tr xác định thời gian chung sống vợ chồng anh chị có 04 người con chung gồm: Lê Ngọc H, sinh ngày 16/01/2008, Lê Ngọc H L, sinh ngày 12/02/2012, Lê Ngọc Hương L, sinh ngày 26/9/2014 và Lê Văn Phát T, sinh ngày 10/3/2019.

Hiện nay 02 người con lớn là Lê Ngọc H, sinh ngày 16/01/2008, Lê Ngọc H L, sinh ngày 12/02/2012 đang sống với anh, còn 02 người con nhỏ là Lê Ngọc Hương L, sinh ngày 26/9/2014 và Lê Văn Tài Phát, sinh ngày 10/3/2019 đang sống cùng với vợ anh. Nay ly hôn anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được tiếp tục nuôi cả hai người con là Lê Ngọc H và Lê Ngọc H L. Anh đồng ý giao hai người con còn lại là Lê Ngọc Hương L và Lê Văn Tài Phát cho vợ anh được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đối với chị Dương Thị Ng: Mặc dù chị Ng đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng chị Ng vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với chị Ng theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn chị Dương Thị Ng chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: giữa anh Tr và chị Ng kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh Tr được ly hôn với chị Ng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về con chung: Từ lúc vợ chồng anh Tr và chị Ng ly thân đến nay thì 02 người con lớn là Lê Ngọc H, sinh ngày 16/01/2008, Lê Ngọc H L, sinh ngày 12/02/2012 sống với anh Tr, còn 02 người con nhỏ là Lê Ngọc Hương L, sinh ngày 26/9/2014 và Lê Văn Tài Phát, sinh ngày 10/3/2019 sống cùng với chị Ng, nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cho anh Tr và chị Ng được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục các con như hiện nay là hoàn toàn phù hợp.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con do anh Tr và chị Ng không yêu cầu nên đề nghị không đặt ra xem xét giải quyết.

Anh Tr và chị Ng có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn anh Tr và chị Ng không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí thì anh Tr phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: anh Tr có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với chị Ng. Chị Ng có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Anh Tr có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Tr.

Chị Ng đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng chị Ng vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Ng.

[2] Về nội dung vụ án: giữa anh Tr và chị Ng kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật và đã được Ủy ban nhân dân xã LN, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và ngày vào ngày 27/8/2007 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của anh Tr đối với chị Ng thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống anh Tr và chị Ng lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân từ cách đây khoảng 02 năm. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Điều này chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của anh Tr và chị Ng là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Tr đối với chị Ng là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về nuôi con chung: Từ lúc vợ chồng anh Tr và chị Ng ly thân đến nay thì 02 người con lớn là Lê Ngọc H, sinh ngày 16/01/2008, Lê Ngọc H L, sinh ngày 12/02/2012 sống với anh Tr, còn 02 người con nhỏ là Lê Ngọc Hương L, sinh ngày 26/9/2014 và Lê Văn Tài Phát, sinh ngày 10/3/2019 sống cùng với chị Ng. Hiện tại anh Tr và chị Ng vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, nên Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên việc nuôi con của anh Tr và chị Ng như hiện tại là hoàn tòa phù hợp.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con do anh Tr và chị Ng không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: anh Tr và chị Ng không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận,

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Lê Đức Tr; Xử cho anh Lê Đức Tr được ly hôn với chị Dương Thị Ng.

2/. Về nuôi con chung: Giao 02 người con tên Lê Ngọc H, sinh ngày 16/01/2008, Lê Ngọc H L, sinh ngày 12/02/2012 cho anh Tr được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.

Giao 02 người con tên Lê Ngọc Hương L, sinh ngày 26/9/2014 và Lê Văn Tài Phát, sinh ngày 10/3/2019 cho chị Ng được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.

Anh Tr và chị Ng có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Anh Tr và chị Ng không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: anh Lê Đức Tr phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001571 ngày 10 tháng 5 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho anh Lê Đức Tr và chị Dương Thị Ng biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 88/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:88/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về