TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Ngày 29 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 76/2022/TLST-HN ngày 23 tháng 02 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:
1/. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị M, sinh năm 1988 Địa chỉ: ấp HV, xã AT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu
2/. Bị đơn: Anh Tạ Văn S, sinh năm 1986 Địa chỉ: ấp HV, xã AT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.
(Chị M có đơn xin vắng mặt, anh S vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 14/02/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Đinh Thị M trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Tạ Văn S cưới nhau vào khoảng năm 2006. Có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương. Sau đó vợ chồng anh chị có đi đăng ký kết hôn vào ngày 30/5/2013 và được Ủy ban nhân dân xã AT cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
Lý do xin ly hôn: Lúc đầu khi cưới nhau về thì vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, nhưng thời gian gần đây thì vợ chồng anh chị xảy ra nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, dẫn đến cuộc sống ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Nguyên nhân chính là chồng chị có mối quan bất chính với người phụ nữ khác, thậm chí có những lần còn hành hung đánh đập chị. Chị đã nhiều lần tha thứ nhưng chồng chị vẫn không sửa đổi. Hiện tại mâu thuẫn giữa hai vợ chồng càng lúc càng trầm trọng, không thể hàn gắn lại được và anh chị đã ly thân cách đây khoảng hơn 10 tháng. Nay chị thấy cuộc sống chung giữa vợ chồng anh chị không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được và chị cũng không còn tình cảm với chồng chị, nên chị yêu cầu xin được ly hôn với chồng chị là anh S.
Về con chung: vợ chồng anh chị có 02 người con chung tên Tạ Văn N, sinh ngày 08/12/2006 và Tạ Văn H, sinh ngày 22/12/2007. Hiện cả hai con đang sống cùng với chị. Khi ly hôn chị M yêu cầu được tiếp tục nuôi người cả hai người con, không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: chị M xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung. Khi ly hôn chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Đối với anh Tạ Văn S: Mặc dù anh S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh S vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh S theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Tạ Văn S chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.
Về nội dung vụ án: giữa chị M và anh S kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, hiện tại chị M xác định chị không còn tình cảm với anh S. Điều này chứng tỏ như vậy cuộc sống vợ chồng của chị M và anh S nếu tiếp tục kéo dài thì cũng không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị M được ly hôn với anh S là phù hợp với quy định của pháp luật;
Về con chung: Từ lúc chị M và anh S ly thân với nhau thì hai người con tên Tạ Văn N, sinh ngày 0812/2006 và Tạ Văn H, sinh ngày 22/12/2007 là do chị M trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị M vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này. Đồng thời nguyện vọng của cả hai người con là muốn được tiếp tục sống cùng với chị M. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao cả hai người con tên Tạ Văn N, sinh ngày 08/12/2006 và Tạ Văn H, sinh ngày 22/12/2007 cho chị M được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp.
Anh S có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Chị M không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị không đặt ra xem xét giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn chị M và anh S không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Về án phí thì chị M phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: chị M có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh S. Anh S có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.
Chị M có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị M.
Anh S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh S vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh S.
[2] Về nội dung vụ án: giữa chị M và anh S kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân xã AT cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 30/5/2013 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Xét yêu cầu ly hôn của chị M đối với anh S thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị M và anh S lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân từ cách đây khoảng hơn 10 tháng. Trong thời gian qua cả hai anh chị mỗi người sống ở một nơi, anh chị cũng không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Quá trình tố tụng chị M cũng xác định hiện tại chị không còn tình cảm gì với anh S, nếu vợ chồng quay về với nhau thì cuộc sống chung cũng không còn hạnh phúc.
Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm của vợ chồng phải được xuất phát từ hai phía, nhưng phía chị M xác định hiện tại chị đã không còn tình cảm gì với anh S, như vậy chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của chị M và anh S là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M đối với anh S là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về nuôi con chung: Từ lúc chị M và anh S ly thân với nhau thì hai người con tên Tạ Văn N, sinh ngày 08/12/2006 và Tạ Văn H, sinh ngày 22/12/2007 là do chị M trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị M vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này. Đồng thời nguyện vọng của cả hai người con là muốn được tiếp tục sống cùng với chị M. Do đó Hội đồng xét xử xem xét giao cả hai người con tên Tạ Văn N, sinh ngày 08/12/2006 và Tạ Văn H, sinh ngày 22/12/2007 cho chị M được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp.
Về mức cấp dưỡng nuôi con do chị M không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Anh S có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị M và anh S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị M;
Xử cho chị Đinh Thị M được ly hôn với anh Tạ Văn S.
2/. Về nuôi con chung: Giao cả hai người con tên Tạ Văn N, sinh ngày 08/12/2006 và Tạ Văn H, sinh ngày 22/12/2007 cho chị Đinh Thị M được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.
Anh Tạ Văn S có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Về mức cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Tạ Văn S.
3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.
4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: chị Đinh Thị M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002905 ngày 23 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Đinh Thị M và anh Tạ Văn S biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 51/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về