Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 44/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 44/2024/HNGĐ-ST NGÀY 24/01/2024 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 24 tháng 01 năm 2024 tại Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 704/2023/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2023, về việc “Tranh chấp xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 469/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Ngọc B. Sinh năm: 1993 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp R, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Ông Trần Văn H. Sinh năm: 1992 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu trong quá trình tố tụng, bà Lê Ngọc B trình bày:

Về hôn nhân: Bà B và ông H kết hôn với nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, việc kết hôn là tự nguyện. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn được bà xác định là trong thời gian chung sống vợ chồng không hòa hợp với nhau, quan điểm sống khác nhau nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, không tự hàn gắn được, hiện nay ông bà đã sống ly thân. Xét thấy hôn nhân không hạnh phúc, bà B xác định tình cảm vợ chồng không thể tiếp tục. Nay bà B yêu cầu được ly hôn với ông H.

Về con chung: Có 01 người con chung tên Trần Lê Nhã U, sinh ngày 26/6/2020, hiện tại cháu U đang chung sống cùng bà B, khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi cháu U, yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.500.000 đồng, cấp dưỡng nuôi con đến đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà B xác định tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc riêng, bà xin vắng mặt tại phiên xét xử của tòa án.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn Trần Văn H đúng theo quy định pháp luật nhưng ông H không có văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn ông Trần Văn H có nơi cư trú tại Ấp T, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bà B khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con chung với ông H nên quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là "Tranh chấp xin ly hôn" theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bà B có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, ông H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ để tham gia xét xử nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ theo Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Tòa án xét xử vắng mặt bà B, ông H theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông bà tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã K vào năm 2015 đúng theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa ông bà được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cãi, gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, hiện ông bà đã ly thân nhau. Bà B xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông H và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn. Trường hợp nếu cho các bên tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, do đó Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của bà B được ly hôn với ông H.

[3] Về con chung: Có 01 người con chung tên Trần Lê Nhã U, sinh ngày 26/6/2020, hiện tại cháu U đang chung sống cùng bà B, khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi cháu U, yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.500.000 đồng, cấp dưỡng nuôi con đến đủ 18 tuổi.

Cháu Trần Lê Nhã U từ trước đến nay đều chung sống cùng bà B, điều kiện hoàn cảnh sống của cháu tốt. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét điều kiện hoàn cảnh sống của cháu U nên giao cháu U cho bà B nuôi dưỡng đến khi trưởng thành là phù hợp và tốt nhất với cháu U.

Bà B yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1.500.000 đồng, cấp dưỡng nuôi con đến đủ 18 tuổi. Đối với vấn đề cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử xét thấy ông H là người không trực tiếp nuôi con nên căn cứ khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình quy định “Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con” mức yêu cầu cấp dưỡng mà bà B đưa ra là cao hơn so với mức cấp dưỡng theo quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử quyết định điều chỉnh mức cấp dưỡng theo đúng quy định của pháp luật là 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi cháu U đủ 18 tuổi.

Ông H không trực tiếp nuôi con chung có quyền thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở việc thăm nom con chung của ông H.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà B xác định tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bà B phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình; Ông H phải chịu án phí cấp dưỡng là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 và khoản 3 Điều 68, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 9, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 116, 117 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Ngọc B về việc yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung tên Trần Lê Nhã Ư, sinh ngày 26/6/2020 cho bà Lê Ngọc B trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành. Ông Trần Văn H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, ông H phải tôn trọng quyền của cháu U được sống cùng bà B. Ông Trần Văn H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000 đồng/tháng (một triệu đồng mỗi tháng) cho đến khi cháu U đủ 18 tuổi, thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày 24/01/2024.

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn không thi hành xong khoản tiền nêu trên thì phải chịu khoản tiền lãi chậm trả tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Về án phí: Bà Lê Ngọc B phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình. Bà có dự nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004902 ngày 25/10/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, nay được chuyển thu án phí, ông Trần Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, chưa nộp.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự cỏ quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 44/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:44/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về