Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 39/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CT, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 39/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 14 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 769/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 221/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Lê Thị N, sinh năm 1992. Địa chỉ: Ấp LH B, xã BL, huyện CT, tỉnh Tiền Giang (có mặt).

2. Bị đơn: Trần Hoài T, sinh năm 1990. Địa chỉ: Ấp VP, xã VK, huyện CT, tỉnh Tiền Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Lê Thị N trình bày:

Chị và anh T tiến đến hôn nhân vào năm 2012 và có đăng ký kết hôn vào ngày 14/10/2013 tại UBND xã Vĩnh Kim. Trong thời gian sống chung thì thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là anh T ham mê cờ bạc gây nợ, về nhà còn kiếm chuyện đánh đập chị. Chị đã bỏ thuê nhà trọ sống riêng từ tháng 05/2020 đến nay. Trong thời gian ly thân anh T đã bán căn nhà và đất để trả nợ cờ bạc. Nay yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về hôn nhân: Yêu cầu giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

- Về con chung: Yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Trần Lê Tường V (sinh ngày 20/11/2013) và cháu Trần Lê Thúy V1 (sinh ngày 07/9/2015).

- Về cấp dưỡng: Không yêu cầu.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Trần Hoài T có ý kiến trình bày:

Thống nhất lời trình bày của nguyên đơn về thời gian kết hôn, tình cảm và nguyên nhân mâu thuẫn. Thừa nhận có đánh bạc nhưng vẫn lo cho vợ con. Nay anh không đồng ý ly hôn vì anh còn thương vợ con, không tranh chấp gì khác.

* Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; Nguyên đơn, bị đơn: Thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng.

Phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Cho chị N được ly hôn với anh T, giao con chung cho chị N nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì xác định đây là tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo qui định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị N và anh T tiến đến hôn nhân và có đăng ký kết hôn vào ngày 14/10/2013 tại UBND xã Vĩnh Kim, nên hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp.

Theo chị N khai nhận: Nguyên nhân mâu thuẫn là anh T ham mê cờ bạc gây nợ, về nhà còn kiếm chuyện đánh đập chị. Chị đã thuê nhà trọ sống riêng từ tháng 05/2020 đến nay.

Xét thấy, lời trình bày của chị N là có cơ sở vì được anh T thừa nhận. Lẽ ra với vai trò là người chồng, người cha anh T phải lo làm ăn để lo cuộc sống gia đình, tuy nhiên anh T lại đam mê cờ bạc dẫn đến nợ nần phải bán nhà đất để trả nợ, đó là nguyên nhân chính dẫn đến rạn nứt tình cảm vợ chồng. Điều đó cho thấy mục đích hôn nhân giữa chị N với anh T không đạt được, mâu thuẫn vợ chồng khó có khả năng hàn gắn. Vì vậy cho chị N được ly hôn với anh T.

[3] Về con chung: Chị N đang nuôi dưỡng con chung là 02 cháu Trần Lê Tường V (sinh ngày 20/11/2013) và cháu Trần Lê Thúy V1 (sinh ngày 07/9/2015) và chăm sóc tốt nên cần tiếp tục giao cho chị N nuôi dưỡng.

[4] Về cấp dưỡng, tài sản: Chị N và anh T không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì chị N phải chịu 300.000 đồng án phí.

[4] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

* Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56,58, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, chị Lê Thị N được ly hôn với anh Trần Hoài T.

2. Về con chung: Giao cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Trần Lê Tường V (sinh ngày 20/11/2013) và cháu Trần Lê Thúy V1 (sinh ngày 07/9/2015).

Anh T được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được quyền cản trở.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải chịu 300.000 đồng, được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003501 ngày 09/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, nên xem như đã nộp xong án phí.

3. Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 39/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về