Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 33/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Trong ngày 28 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tân Phước mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 80/2022/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2022 về tranh chấp "xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2022/QĐXX-ST ngày 28 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2022/QĐST-HNGĐ ngày 13/7/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Ung Thị D, sinh năm 1985 Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T.

2. Bị đơn: Nguyễn Lưu N, sinh năm 1979 Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh T.

- Chị D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

- Anh N vắng mặt không lý do dù được Tòa án triệu tập hợp lệ 02 lần.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện, Bản tự khai cùng ngày 11/3/2022 nguyên đơn chị Ung Thị D trình bày: Tôi và anh Nguyễn Lưu N cưới nhau vào năm 2000, có quen biết tìm hiểu trước và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T vào ngày 16/5/2007. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng, thường hay cải vã. Lý do, do anh N không lo làm ăn, chỉ mê rượu chè, cờ bạc rồi làm nợ nần, tôi và gia đình đã khuyên ngăn 2 rất nhiều nhưng anh N vẫn không sửa đổi, nên tôi không thể tiếp tục chung sống với anh N được nữa và ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Về con chung: Có 03 con chung là cháu Nguyễn Ngọc P, sinh ngày 01/01/2001, Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 07/9/2003 và Nguyễn Ngọc Anh T, sinh ngày 21/4/2015, cháu P và H đã thành niên, hiện cháu T đang sống cùng tôi.

Nay tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Nguyễn Lưu N; Về con chung: yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung cháu T. Không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung; tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: không có.

Ngày 23/6/2022 nguyên đơn chị Ung Thị D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

- Bị đơn anh Nguyễn Lưu N đã được Tòa án thông báo về yêu cầu khởi kiện của chị D và cũng được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để hòa giải nhưng anh N vẫn vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản, ý kiến trả lời theo thông báo của Tòa án.

* Tại phiên tòa hôm nay:

- Nguyên đơn chị Ung Thị D và bị đơn anh Nguyễn Lưu N vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Hội đồng xét thấy theo đơn khởi kiện và yêu cầu của chị Ung Thị D tại phiên tòa, thì chị D khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tân Phước giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Lưu N. Anh Nguyễn Lưu N hiện cư trú tại xã T, huyện T, tỉnh T. Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước theo qui định tại Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp "Ly hôn" qui định tại Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử xét thấy nguyên đơn chị Ung Thị D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn anh Nguyễn Lưu N không có yêu cầu phản tố và đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để xét xử nhưng anh N vẫn vắng mặt hai lần không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn chị Ung Thị D và bị đơn anh Nguyễn Lưu N.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Tại phiên tòa hôm nay chị Ung Thị D yêu cầu giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Lưu N. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Ung Thị D. Hội đồng xét xử xét thấy chị D và anh N cưới nhau vào năm 2000, có quen biết tìm hiểu trước và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T vào ngày 16/5/2007. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng, thường hay cải vã. Lý do chị D xác định là do anh N không lo làm ăn, chỉ mê rượu chè, cờ bạc rồi làm nợ nần, chị và gia đình đã khuyên ngăn rất nhiều nhưng anh N vẫn không sửa đổi, nên chị không thể tiếp tục chung sống với anh N được nữa. Vợ chồng chính thức ly thân từ năm 2020 cho đến nay, thời gian ly thân vợ chồng không hàn gắn được gì. Hội đồng xét xử xét thấy thực tế thời gian chung sống hạnh phúc giữa chị D 3 và anh N là ngắn, thời gian ly thân nhau từ năm 2020 đến nay cũng đã lâu, trong thời gian ly thân nhau, chị D và anh N cũng không có một động thái nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Quá trình giải quyết vụ án chị D cương quyết được xin ly hôn đối với anh N vì tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Lời khai của bà Dương Thị T là mẹ ruột chị D cũng xác định chị D và anh N có nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được. Bị đơn anh Nguyễn Lưu N đã được Tòa án thông báo về yêu cầu khởi kiện của chị D và cũng được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để hòa giải nhưng anh N vẫn vắng mặt không lý do và cũng không có văn bản, ý kiến trả lời theo thông báo của Tòa án. Anh N đã được Tòa án thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ nhưng anh vẫn không có ý kiến. Như vậy chứng tỏ anh N đã không có tình cảm đối với chị D. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị D và anh N là đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn đoàn tụ nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận cho chị Ung Thị D được ly hôn anh Nguyễn Lưu N là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị D và anh N có 03 chung là Nguyễn Ngọc P, sinh ngày 01/01/2001, Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 07/9/2003 và Nguyễn Ngọc Anh T, sinh ngày 21/4/2015, cháu P và H đã thành niên, hiện cháu T đang sống cùng chị D. Quá trình giải quyết vụ án chị D yêu cầu tiếp tục nuôi con chung là cháu T. Lời khai của cháu T cũng yêu cầu được sống với mẹ, cũng phù hợp với yêu cầu của chị D. Quá trình giải quyết vụ án anh N cũng không có yêu cầu nuôi con chung. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cho chị D tiếp tục nuôi cháu T là con chung giữa chị D và anh N, là phù hợp với nguyện vọng của cháu, đảm bảo cuộc sống cho cháu.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án chị D không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. [5] Về tài sản chung: Chị D xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về nợ chung: Chị D xác định không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí: Chị D phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định tại Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Về quan hệ hôn nhân:

- Chấp nhận cho chị Ung Thị D được ly hôn với anh Nguyễn Lưu N.

2. Về con chung:

- Giao cho chị Ung Thị D được tiếp tục nuôi một con chung giữa chị và anh Nguyễn Lưu N là cháu Nguyễn Ngọc Anh T, sinh ngày 21/4/2015.

Anh Nguyễn Lưu N không phải cấp dưỡng nuôi con do chị D chưa có yêu cầu.

Anh Nguyễn Lưu N có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền tranh cản.

3. Về án phí:

Chị Ung Thị D phải chịu 300.000đồng tiền án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu số 0003036 ngày 09/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang, xem như chị D thi hành xong tiền án phí hôn nhân sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Chị D và anh N được thực hiện quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án hoặc niêm yết công khai, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 33/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:33/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về