TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 158/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN
Ngày 07 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 339/2022/TLST-HN ngày 28 tháng 6 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 149/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
1/. Nguyên đơn: Chị Phan Thị Thúy L, sinh năm 1997 Địa chỉ: ấp BHI, xã ĐHL, huyện BĐ, tỉnh Bến Tre
2/. Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng Kh, sinh năm 1998 Địa chỉ: ấp CK, xã AP, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu (Chị L có đơn xin vắng mặt, anh Kh vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 14/6/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Phan Thị Thúy L bày:
Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Nguyễn Hoàng Kh cưới nhau vào khoảng năm 2019, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AP vào ngày 17/12/2019 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.
Nguyên nhân ly hôn theo chị L xác định: thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng cách đây 06 tháng thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn. Lý do chính anh Kh lại không lo làm ăn, mà chỉ mê nhậu nhẹt.
Hai vợ chồng anh chị đã ly thân cách đây khoảng hơn 06 tháng. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng cũng không thể hàn gắn lại được và anh cũng không còn tình cảm gì với anh Kh nên anh yêu cầu xin được ly hôn với chồng chị là anh Nguyễn Hoàng Kh.
Về quan hệ con chung: Thời gian chung sống vợ chồng anh chị không có con chung. Khi ly hôn anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị L xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung. Khi ly hôn chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với anh Nguyễn Hoàng Kh: Mặc dù anh Kh đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Kh vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh Kh theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Nguyễn Hoàng Kh chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.
Về nội dung vụ án: giữa chị L và anh Kh kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, hiện tại chị L xác định chị không còn tình cảm với anh Kh. Điều này chứng tỏ như vậy cuộc sống vợ chồng của chị L và anh Kh nếu tiếp tục kéo dài thì cũng không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn với anh Kh là phù hợp với quy định của pháp luật;
Về con chung: chị L và anh Kh hiện tại không có con chung, nên đề nghị không đặt ra xem xét giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn chị L và anh Kh không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Về án phí thì chị L phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: chị L có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh Kh. Anh Kh có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.
Chị L có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị L.
Anh Kh đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh Kh vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Kh.
[2] Về nội dung vụ án: giữa chị L và anh Kh kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân xã AP cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 17/12/2019 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Xét yêu cầu ly hôn của chị L đối với anh Kh thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị L và anh Kh lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân hơn 06 tháng qua. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Chị L xác định hiện tại anh không còn tình cảm gì với anh Kh, nếu vợ chồng quay về với nhau thì cuộc sống chung cũng không còn hạnh phúc. Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm của vợ chồng phải được xuất phát từ hai phía, nhưng phía chị L xác định hiện tại anh đã không còn tình cảm gì với anh Kh, như vậy chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của chị L và anh Kh là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L đối với anh Kh là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về nuôi con chung: chị L và anh Kh không có con chung, nên không đặt ra xem xét.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị L và anh Kh không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 227, khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Thúy L; Xử cho chị Phan Thị Thúy L được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng Kh.
2/. Về nuôi con chung: không đặt ra xem xét giải quyết.
3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.
4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: chị Phan Thị Thúy L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002465 ngày 28 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Phan Thị Thúy L và anh Nguyễn Hoàng Kh được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 158/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 158/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về