Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 156/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 156/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 06 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 415/2022/TLST-HN ngày 04 tháng 8 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 182/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Mỹ H, sinh năm 1990 Địa chỉ: ấp TTA, xã AT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

2/. Bị đơn: Anh Trương Văn C, sinh năm 1978 Địa chỉ: ấp TTA, xã AT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu (Chị H và anh C có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/8/2022, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Bùi Thị Mỹ H và bị đơn anh Trương Văn C thống nhất trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: vợ chồng anh chị cưới nhau vào khoảng năm 2010, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AT vào ngày 02/01/2014 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân mâu thuẫn chị H xác định: thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng sau đó khoảng 04 năm thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, dẫn tới cuộc sống ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Vợ chồng anh chị đã ly thân khoảng 03 năm qua. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng cũng không thể hàn gắn lại được và chị cũng không còn tình cảm gì với chồng chị, nên chị H yêu cầu xin được ly hôn với chồng chị là anh Trương Văn C.

Anh C xác định vợ chồng anh chị có xảy ra một số mâu thuẫn, anh chị đã ly thân khoảng 02 năm qua. Nay anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H.

Về con chung: chị H và anh C thống nhất xác định thời gian chung sống vợ chồng anh chị có 02 người con chung là Trương Gia Th, sinh ngày 30/7/2012 và Trương Thảo Ng, sinh ngày 11/8/2018. Khi ly hôn chị H yêu cầu được nuôi cả hai người con, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh C xác định khi ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi người con là Trương Gia Th, đồng ý giao người con là Trương Thảo Ng cho vợ anh được tiếp tục nuôi con. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: chị H và anh C xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung. Khi ly hôn chị H và anh C không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của các đương sự là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Giữa chị H và anh C kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, quá trình Tòa án làm việc thì cả chị H và anh C đều có nguyện vọng muốn được ly hôn với nhau, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị H và anh C là hoàn toàn phù hợp.

Về con chung: Từ lúc chị H và anh C ly thân với nhau thì người con tên Trương Gia Th, sinh ngày 30/7/2012 đang sống cùng với anh C, người con tên Trương Thảo Ng, sinh ngày 11/8/2018 đang sống cùng với chị H. Hiện tại nguyện vọng của người con là Trương Gia Th muốn được tiếp tục sống cùng với anh C. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giao người con là Trương Gia Th cho anh C được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục, giao người con là Trương Thảo Ng cho chị H được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chị Hường và anh C không yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn chị H và anh C không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí thì chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị H có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh C. Anh C có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị H và anh C có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị H và anh C.

[2] Về nội dung vụ án: giữa chị H và anh C kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân xã AT cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 02/01/2014 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh C thì Hội đồng đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu tH, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị H và anh C lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân khoảng 03 năm qua. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Quá trình Tòa án làm việc thì cả chị H và anh C đều có nguyện vọng được ly hôn với nhau. Điều này chứng tỏ mâu thuẫn trong hôn nhân của anh chị đã rất trầm trọng, cuộc sống chung của anh chị là không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên Hội đồng đồng xét xử căn cứ vào Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình ghi nhận sự thuận tình ly hôn của chị H và anh C để anh chị có một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, ổn định hơn là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về nuôi con chung: Từ lúc chị H và anh C ly thân với nhau thì người con tên Trương Gia Th, sinh ngày 30/7/2012 đang sống cùng với anh C, người con tên Trương Thảo Ng, sinh ngày 11/8/2018 đang sống cùng với chị H. Hiện tại nguyện vọng của người con là Trương Gia Th muốn được tiếp tục sống cùng với anh C. Do đó, Hội đồng xét xử giao người con là Trương Gia Th cho anh C được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục, giao người con là Trương Thảo Nguyên cho chị H được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.

Về tài sản chung và nợ chung: Do chị H và anh C không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51 và 55, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Bùi Thị Mỹ H và anh Trương Văn C.

2/. Về nuôi con chung: giao người con là Trương Gia Th, sinh ngày 30/7/2012 cho anh Lê Văn Cần được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.

Giao người con là Trương Thảo Ng, sinh ngày 11/8/2018 cho chị Bùi Thị Mỹ H được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.

Chị H và anh C có quyền, nghĩa vụ đến thăm non chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí: chị Bùi Thị Mỹ H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009350 ngày 04 tháng 8 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Bùi Thị Mỹ H và anh Trương Văn C biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 156/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:156/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về