Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 14/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 14/2024/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Trong ngày 15 tháng 03 năm 2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số: 43/2024/TLST – HNGĐ, ngày 16 tháng 02 năm 2024 về việc tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2024/QĐXXST–HNGĐ, ngày 23 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lục Thị Nh, sinh năm 1979 Địa chỉ: ấp B1, xã LN, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

2. Bị đơn: Anh Lê T3 , sinh năm 1973 Địa chỉ: ấp B1, xã LN, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị Lục Thị Nh và anh Lê T3 vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và tại biên bản lấy lời khai ngày 16/02/2024, nguyên đơn chị Lục Thị Nh trình bày:

Về hôn nhân: Vào khoảng năm 1996, chị Nh và anh L có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc nhưng đến nay không có tiến hành đăng ký kết hôn. Thời gian đầu vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 10 năm nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Nh yêu cầu được ly hôn với anh Lê T3 .

Về con chung: Chị Nh xác định trong thời gian chung sống, giữa chị Nh và anh L có 05 người con chung là cháu Lê T3 T1, sinh ngày 01/01/1997; Lê T3 Đ1, sinh ngày 01/01/1999; cháu Lê Hữu N1, sinh ngày 04/12/2002; cháu Lê Thị Anh T2, sinh ngày 23/5/2007; cháu Lê Hữu N2, sinh ngày 05/5/2016; Cháu T1, cháu Đ1 và cháu N1 hiện tại đã lớn và đã trưởng thành, còn cháu T2 và cháu N2 thì đang sống chung với chị Nh. Chị Nh yêu cầu được nuôi cháu Lê Thị Anh T2 và cháu Lê Hữu N2 và chị không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Còn cháu Lê T3 T1, cháu Lê T3 Đ1 và cháu Lê Hữu N1 đã lớn nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Nh xác định giữa chị và anh L không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, chị Nh không có yêu cầu gì khác.

* Tại bản tự khai ngày 16/02/2024 bị đơn anh Lê T3 trình bày:

Về hôn nhân: Vào khoảng năm 1996, anh L và chị Nh có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc nhưng đến nay không có tiến hành đăng ký kết hôn. Thời gian đầu vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 10 năm nay. Nay chị Nh yêu cầu ly hôn với anh L thì anh L đồng ý.

Về con chung: Anh L xác định trong thời gian chung sống, giữa anh và chị Nh có 05 người con chung là cháu Lê T3 T1, sinh ngày 01/01/1997; Lê T3 Đ1, sinh ngày 01/01/1999; cháu Lê Hữu N1, sinh ngày 04/12/2002; cháu Lê Thị Anh T2, sinh ngày 23/5/2007; cháu Lê Hữu N2, sinh ngày 05/5/2016; Cháu T1, cháu Đ1 và cháu N1 hiện tại đã lớn và đã trưởng thành, còn cháu T2 và cháu N2 thì đang sống chung với chị Nh. Anh L xác định anh đồng ý giao cháu Lê Thị Anh T2 và cháu Lê Hữu N2 cho chị Nh nuôi dưỡng và anh không phải cấp dưỡng cho con. Còn cháu Lê T3 T1, cháu Lê T3 Đ1 và cháu Lê Hữu N1 đã lớn nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Anh L xác định giữa anh và chị Nh không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, anh L không có yêu cầu gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Từ khi tham gia tố tụng cho đến nay, nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Lục Thị Nh và anh Lê T3 là vợ chồng;

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Lê Thị Anh T2, sinh ngày 23/5/2007; cháu Lê Hữu N2, sinh ngày 05/5/2016 cho chị Lục Thị Nh nuôi dưỡng và anh Lê T3 không phải cấp dưỡng cho con;

3. Về quan hệ tài sản: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Lục Thị Nh khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Lê T3 và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 7 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Lê T3 có nơi đăng ký thường trú tại ấp B1, xã LN, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn chị Lục Thị Nh và anh Lê T3 tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị Nh và anh L.

Về nội dung vụ án:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lục Thị Nh yêu cầu xin ly hôn với anh Lê T3 . Hội đồng xét xử xét thấy: Chị Nh và anh L thừa nhận vào khoảng năm 1996, chị Nh và anh L có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc nhưng đến nay anh chị chưa có đăng ký kết hôn. Nay chị Nh xin ly hôn với anh L thì anh L cũng đồng ý. Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này mà chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Do đó, căn cứ Điều 53 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử không công nhận chị Lục Thị Nh và anh Lê T3 Liêm là vợ chồng.

[2] Về quan hệ con chung: Chị Lục Thị Nh và anh Lê T3 xác định trong quá trình chung sống giữa chị Nh và anh L có 05 người con chung là cháu Lê T3 T1, sinh ngày 01/01/1997; Lê T3 Đ1, sinh ngày 01/01/1999; cháu Lê Hữu N1, sinh ngày 04/12/2002; cháu Lê Thị Anh T2, sinh ngày 23/5/2007; cháu Lê Hữu N2, sinh ngày 05/5/2016; Cháu T1, cháu Đ1 và cháu N1 hiện tại đã lớn và đã trưởng thành, còn cháu T2 và cháu N2 thì đang sống chung với chị Nh. Chị Nh xác định chị yêu cầu được nuôi cháu Lê Thị Anh T2 và cháu Lê Hữu N2 và chị không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Anh L cũng đồng ý giao cháu T2 và cháu N2 cho chị Nh nuôi dưỡng và anh không phải cấp dưỡng cho con. Còn cháu Lê T3 T1, cháu Lê T3 Đ1 và cháu Lê Hữu N1 đã lớn nên chị Nh và anh L không yêu cầu giải quyết. Hội đồng xét xử xét thấy cháu Lê Thị Anh T2, sinh ngày 23/5/2007; cháu Lê Hữu N2, sinh ngày 05/5/2016 hiện đang sống chung với chị Nh, các cháu đã có môi trường và cuộc sống ổn định đồng thời cháu T2 và cháu N2 cũng có nguyện vọng được theo sống chung với chị Nh. Vì vậy Hội đồng xét xử tiếp tục giao cháu Lê Thị Anh T2 và cháu Lê Hữu N2 cho chị Nh nuôi dưỡng, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng anh có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

[3] Về quan hệ tài sản chung: Chị Lục Thị Nh và anh Lê T3 xác định giữa chị Nh và anh L không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lục Thị Nh phải chịu số tiền 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 7 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Lục Thị Nh và anh Lê T3 là vợ chồng.

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Lê Thị Anh T2, sinh ngày 23/5/2007; cháu Lê Hữu N2, sinh ngày 05/5/2016 cho chị Lục Thị Nh nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Lê T3 không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng anh có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở;

3. Về tài sản chung: Chị Lục Thị Nh và anh Lê T3 không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết;

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Buộc chị Lục Thị Nh phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng chị Lục Thị Nh đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0007510, ngày 16/02/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 14/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về