Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 129/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 129/2023/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 28 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 292/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2022 về tranh chấp "xin ly hôn" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Neàng Rách T, sinh năm 1996; nơi cư trú: tổ A, ấp S, xã V, thị xã T, tỉnh A (vắng mặt).

2. Bị đơn: ông Chau Sam N, sinh năm 1993; nơi cư trú: tổ A, ấp S, xã V, thị xã T, tỉnh A (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Neàng Rách T trình bày:

Về hôn nhân: bà T và ông Chau Sam N tự chung sống với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V vào ngày 14/12/2017. Sau khi kết hôn bà T và ông N chung sống tại tổ A, ấp S, xã V, huyện T, tỉnh A.

Thời gian đầu, bà T và ông N chung sống hạnh phúc, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do ông N không chí thú làm ăn, lại thường xuyên ăn nhậu và gây nợ, phương tiện đi lại của vợ chồng chỉ có một chiếc xe mô tô nhưng ông N cũng mang đi cầm lấy tiền tiêu xài hết, mặc dù bà T đã nhiều lần trả nợ cho ông N nhưng vẫn không trả hết nợ. Bà T phải một mình đi làm công nhân ở Đồng Nai để kiếm tiền nuôi con, còn ông N thì không quan tâm lo cho gia đình và tiếp bà T chăm sóc con, bà T đã nhiều lần khuyên nhưng ông N không thay đổi dẫn đến mâu thuẫn giữa bà T và ông N ngày càng trầm trọng, không khắc phục được. Đến năm 2019 ông N về nhà cha mẹ sinh sống, bà T và ông N không còn chung sống với nhau từ đó cho đến nay. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ gia đình, không thể tiếp tục chung sống với nhau nữa nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn với ông Chau Sam N.

Về con chung: bà T và ông N có một con chung tên Neàng Thao Qua R, sinh ngày 18/01/2012, khi ly hôn bà T yêu cầu được nuôi con và yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

2. Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng cho bị đơn ông Chau Sam N như: thông báo thụ lý vụ án; thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng chỉ có nguyên đơn bà T có mặt, bị đơn ông N vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và lập biên bản không tiến hành hòa giải được.

Ngày 07/12/2023, Tòa án mở phiên tòa xét xử và đã triệu tập hợp lệ các đương sự nhưng nguyên đơn bà Neàng R1 Tha vắng mặt, có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn ông Chau Sam N vắng mặt không có lý do nên Tòa án hoãn phiên tòa lần thứ nhất.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Neàng R1 Tha vắng mặt, có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn ông Chau Sam N tiếp tục vắng mặt lần 2 không có lý do và không giao nộp thêm tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

3. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã B phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng:

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Giữa bà T và ông Chau Sam N do mai mối giới thiệu, có tổ chức lễ cưới vào năm 2010, đến năm 2017 mới đăng ký kết hôn đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, do ông N không lo làm ăn phù giúp gia đình, gây nợ và đã từng nộp đơn ly hôn một lần nhưng bà rút đơn hàn gắng lại nhưng về sau vẫn không hạnh phúc nên bà yêu cầu được ly hôn với ông N, quá trình Tòa án giải quyết ông N cũng không thể hiện ý kiến của mình. Căn cứ các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Do đó, yêu cầu của bà T là có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: có 01 tên Neàng Thao Qua R, sinh ngày 18/01/2012 và cháu có nguyện vọng được sống cùng với mẹ và phù hợp với ý kiến của bà T, nghĩ nên giao cháu R cho bà T nuôi dạy, ông N không phải cấp dưỡng, do bà T không yêu cầu.

Về tài sản chung: tự thỏa thuận, nên không đặt ra giải quyết; Về nợ chung: không có, nên không đặt ra giải quyết.

Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, xử:

Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà N1 Rách Tha đối với ông Chau Sam N;

Về con chung: Giao cháu tên Neàng Thao Qua R, sinh ngày 18/01/2012 cho bà T được tiếp tục nuôi dạy và ông Chau Sam N không phải cấp dưỡng, do bà T không yêu cầu;

Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng [1] Về thẩm quyền giải quyết: tranh chấp hôn nhân gia đình về việc xin ly hôn và bị đơn có nơi cư trú tại trên địa bàn thị xã T, tỉnh A. Tòa án nhân dân thị xã B thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về sự vắng mặt của nguyên đơn bà Neàng Rách T, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; bị đơn ông Chau Sam N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ tham gia phiên tòa lần 2, nhưng vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự và xét xử vụ án theo trình tự thủ tục quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Quan hệ hôn nhân được xác lập vào năm 2010, đăng ký kết hôn năm 2017 trong thời điểm Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực, nay phát sinh tranh chấp thì áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để giải quyết theo quy định tại Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Về nội dung vụ án

[4] Về quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn được xác lập năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, thị xã T, tỉnh A trong năm 2017 đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên đây là hôn nhân hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Theo lời trình bày của nguyên đơn và kết quả xác minh tại địa phương thì tình trạng hôn nhân của các đương sự có phát sinh mâu thuẫn, từ tháng 03/2022 giữa bà T và ông N sống ly thân nhau đến ngày nay.

Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.

Xét thấy, vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, nhưng vợ chồng đã không còn sống chung với nhau từ tháng 03/2022 đến nay, do mâu thuẫn gia đình. Từ đó, cho thấy tình trạng hôn nhân là trầm trọng, không thể hàn gắn để đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về quan hệ con chung: bà T và ông N có 01 tên Neàng Thao Qua R, sinh ngày 18/01/2012, hiện do bà T đang trực tiếp tục nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà T có nguyện vọng xin quyền tiếp tục nuôi con và cháu R có nguyện vọng được sống cùng với bà T. Nhận thấy bà T là trực tiếp nuôi dưỡng con từ khi ông, bà ly thân nhau đến nay; để đảm bảo môi trường sinh sống, học tập, vui chơi giải trí của cháu R nên Hội đồng xét xử tiếp tục giao cho nguyên đơn bà T nuôi dưỡng con chung là phù hợp với quy định của pháp luật tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Theo quy định của pháp luật thì bà Neàng R1 Tha người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Chau Sam N người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân tổ chức có thẩm quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người người nuôi con.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con chung: bà T người trực tiếp nuôi con nhưng không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; về quan hệ tài sản chung thì không yêu cầu Tòa án giải quyết và khai không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về nghĩa vụ chứng minh, nguyên đơn bà T khởi kiện và đã giao nộp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp theo khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[8] Đối với bị đơn ông Chau Sam N, trong quá trình tố tụng đã được Toà án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng, triệu tập đến Toà án để giải quyết vụ việc nhưng ông N không đến không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc gặp trở ngại khách quan; không gửi ý kiến bằng văn bản và không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Toà án nhằm thể hiện sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình được quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem là từ bỏ quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét gì cho bị đơn.

[9] Về án phí sơ thẩm: nguyên đơn bà Neàng Rách T là người xin ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 3 Điều 218; Khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 228; Điều 238;

khoản 2 Điều 244; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Nèang Rách T1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Neàng Rách T được ly hôn ông Chau Sam N Về quan hệ con chung: Giao con chung tên ên Neàng Thao Qua R, sinh ngày 18/01/2012 cho bà N1 Rách Tha được tiếp tục nuôi dưỡng con chung.

Bà T người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Chau Sam N người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân tổ chức có thẩm quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người người nuôi con.

Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn bà Neàng Rách T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0008807 ngày 17/11/2022 của Chi Cục Thi hành án Dân sự thị xã B.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử theo trình tự phúc thẩm là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản bán được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 129/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:129/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về