Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 103/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 103/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 08 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 213/2022/TLST-HN ngày 04 tháng 5 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Anh Võ Quốc V, sinh năm 1983 Địa chỉ: ấp HI, xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

2/. Bị đơn: Chị Mai Thị T, sinh năm 1983 Địa chỉ: ấp HI, xã LĐ, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Anh V có đơn xin vắng mặt, chị T vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 07/3/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Võ Quốc V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh và chị Mai Thị T cưới nhau vào khoảng năm 2013, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LĐ vào ngày 20/11/2014 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo anh V xác định: thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng thời gian gần đây thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, cuộc sống ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Vợ chồng anh chị đã ly thân khoảng 04 năm nay. Hiện tại vợ chồng không thể hàn gắn mâu thuẫn được, và anh cũng không còn tình cảm với chị T, nên anh xin ly hôn với vợ anh là chị Mai Thị T.

Về quan hệ con chung: anh V xác định thời gian chung sống vợ chồng anh chị có 02 người con chung tên Võ Mai Thảo Đ, sinh ngày 14/12/2013 và Võ Mai Khánh B, sinh ngày 09/3/2015. Hiện người con tên Võ Mai Thảo Đ đang sống cùng với anh, người con tên Võ Mai Khánh B đang sống cùng với vợ anh. Khi ly hôn anh yêu cầu tôn trọng nguyện vọng của hai con, nếu con sống với anh hoặc với vợ anh thì người đó có trách nhiệm nuôi dưỡng giáo dục. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: anh V xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có nợ ai, cũng không ai nợ vợ chồng anh chị. Khi ly hôn anh V không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đối với chị Mai Thị T: Mặc dù chị T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng chị T vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với chị T theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn chị Mai Thị T chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: giữa anh V và chị T kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh V được ly hôn với chị T là phù hợp với quy định của pháp luật;

Về con chung: Từ lúc vợ chồng anh V và chị T ly thân đến nay người con tên Võ Mai Thảo Đ, sinh ngày 14/12/2013 là do anh V trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục, còn người con tên Võ Mai Khánh B, sinh ngày 09/3/2015 là do chị T trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Cả anh V và chị T vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên việc nuôi con của anh V và chị T như hiện nay là phù hợp.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con do anh V và chị T không yêu cầu nên đề nghị không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn anh V và chị T không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí thì anh V phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: anh V có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với chị T. Chị T có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Anh V có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh V.

Chị T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng chị T vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị T.

[2] Về nội dung vụ án: giữa anh V và chị T kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân xã LĐ cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 20/11/2014 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của anh V đối với chị T thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống anh V và chị T lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân từ cách đây khoảng 04 năm. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Đồng thời anh V cũng xác định hiện tại anh không còn tình cảm gì với chị T nữa. Điều này chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của anh V và chị T là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh V đối với chị T là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về nuôi con chung: Từ lúc vợ chồng anh V và chị T ly thân đến nay người con tên Võ Mai Thảo Đ, sinh ngày 14/12/2013 là do anh V trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục, còn người con tên Võ Mai Khánh B, sinh ngày 09/3/2015 là do chị T trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Cả anh V và chị T vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, nên Hội đồng xét xử xem xét giữ nguyên việc nuôi con của anh V và chị T như hiện nay là phù hợp.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con do anh V và chị T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: anh V và chị T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận,

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Võ Quốc V;

Xử cho anh Võ Quốc V được ly hôn với chị Mai Thị T.

2/. Về nuôi con chung: Giao người con tên Võ Mai Thảo Đ, sinh ngày 14/12/2013 cho anh V được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục; Giao người con tên Võ Mai Khánh B, sinh ngày 09/3/2015 cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.

Anh V và chị T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Anh V và chị T không yêu cầu xem xét nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: anh Võ Quốc V phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002278 ngày 04 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho anh Võ Quốc V và chị Mai Thị T biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 103/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:103/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về