Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 101/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 101/2023/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 28 tháng 09 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 328/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 10 năm 2022 về tranh chấp "xin ly hôn" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 130/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 25/08/2023, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1999; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh V (vắng mặt).

2. Bị đơn: ông Phạm Văn N, sinh năm 1998; nơi cư trú: khóm N, phường N, thị xã T, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: bà T và ông N chung sống vào năm 2022, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh V ngày 12/5/2022. Bà T và ông N chung sống không hạnh phúc, đến tháng 8 năm 2022 thì mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng trầm trọng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không khắc phục được, do ông N không lo làm ăn, cờ bạc gây nợ phải lấy tài sản chung là xe và vàng cưới mang đi cầm cố để trả nợ. Bà T đã nhiều lần khuyên nhưng ông N không sửa đổi lại chửi mắn, đánh bà T và đập đồ trong nhà. Do không chịu đựng được tính tình cọc cằng, hung dữ của ông N nên bà T đã về nhà cha mẹ ở, không còn chung sống với nhau cho đến ngày nay. Nay bà T yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà T được ly hôn với ông Phạm Văn N.

Về con chung: không có con chung; về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết và không có nợ chung.

2. Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng cho bị đơn ông Phạm Văn N như: thông báo thụ lý vụ án; thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng chỉ có nguyên đơn bà T có mặt, bị đơn ông Phạm Văn N vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và lập biên bản không tiến hành hòa giải được.

Ngày 12/08/2023, Tòa án mở phiên tòa xét xử và đã triệu tập hợp lệ các đương sự nhưng nguyên đơn bà Nguyễn Thị T vắng mặt, có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn ông Phạm Văn N vắng mặt không có lý do nên Tòa án hoãn phiên tòa lần thứ nhất.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T vắng mặt, có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn ông Phạm Văn N tiếp tục vắng mặt lần 2 không có lý do và không giao nộp thêm tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

3. Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thị xã B phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng:

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: bà T và ông N tự nguyện chung sống vợ chồng vào năm 2022, có đăng ký kết hôn đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận. Sau khi kết hôn vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung, ông N cờ bạc, không lo làm ăn, bà T nhiều lần khuyên nhưng ông N không sửa đổi mà còn có hành vi bạo lực gia đình nên bà T đã về nhà cha, mẹ đẻ và không còn sống chung với ông N. Bà T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc hôn nhân này nên bà T yêu cầu ly hôn với ông N, quá trình Tòa án giải quyết ông N cũng không thể hiện ý kiến của mình. Vì vậy, việc yêu cầu của nguyên đơn có cơ sở chấp nhận.

Về con chung: không có con chung.

Về tài sản, nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Từ những căn cứ trên đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị T đối với ông Phạm Văn N;

Về con chung; về tài sản và nợ chung: không đề xuất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng [1] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp hôn nhân gia đình về việc xin ly hôn và bị đơn có nơi cư trú tại trên địa bàn thị xã T, tỉnh An Giang. Tòa án nhân dân thị xã B thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về sự vắng mặt của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; bị đơn ông Phạm Văn N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ tham gia phiên tòa lần 2 nhưng vắng mặt không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự và xét xử vụ án theo trình tự thủ tục quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Quan hệ hôn nhân được xác lập vào năm 2022, trong thời điểm Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu lực, nay phát sinh tranh chấp thì áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 để giải quyết theo quy định tại Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Về nội dung vụ án

[4] Về quan hệ hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn được xác lập năm 2022, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh V đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên đây là hôn nhân hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Theo lời trình bày của nguyên đơn và kết quả xác minh tại địa phương thì tình trạng hôn nhân của các đương sự có phát sinh mâu thuẫn, từ tháng 8 năm 2022 giữa bà T và ông N sống ly thân nhau đến ngày nay.

Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.

Xét thấy, vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, nhưng nguyên đơn và bị đơn đã không còn sống chung với nhau từ tháng 8/2022 đến nay, do nhiều bất đồng trong quan điểm sống. Từ đó, cho thấy tình trạng hôn nhân là trầm trọng, không thể hàn gắn để đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về quan hệ con chung: không có con chung; về quan hệ tài sản chung và nợ chung: nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết và khai không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về nghĩa vụ chứng minh, ngyên đơn bà Nguyễn Thị T khởi kiện và đã giao nộp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp theo khoản 1 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[7] Đối với bị đơn ông Phạm Văn N, trong quá trình tố tụng đã được Toà án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng, triệu tập đến Toà án để giải quyết vụ việc nhưng ông N không đến không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc gặp trở ngại khách quan; không gửi ý kiến bằng văn bản và không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Toà án nhằm thể hiện sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình được quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem là từ bỏ quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình nên Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét gì cho bị đơn.

[8] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

[9] Về án phí sơ thẩm:

- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thì l người xin ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án tranh chấp Hôn nhân và Gia đình.

- Bị đơn ông Phạm Văn N không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 3 Điều 218; Khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 228; Điều 238; khoản 2 Điều 244; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 51, Điều 56, Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T Về quan hệ hôn nhân: bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Phạm Văn N Giấy chứng nhận kết hôn số 40 ngày 12 tháng 05 năm 2022 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh V không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về án phí sơ thẩm:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thì p chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm đã nộp theo biên lai số 0008679 ngày 18/10/2022 của Chi Cục Thi hành án Dân sự thị xã B.

Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử theo trình tự phúc thẩm là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn số 101/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:101/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về