Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 81/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN – TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 81/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 219/2022/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2022 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 122/2022/QĐXX- ST ngày 29 tháng 8 năm 2022; quyết định hoãn phiên tòa số 53/2022/QĐST-DS, ngày 14 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị X, sinh 1975; nơi cư trú: Tổ 01, ấp T, xã Đ, huyện T, tỉnh A (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1975; nơi cư trú: Tổ 01, ấp T, xã Đ, huyện T, tỉnh A (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn ngày 16-5-2022 và quá trình tố tụng tại Tòa án nguyên đơn bà Nguyễn Thị X trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn H qua quá trình tự tìm hiểu nhau nên bà cùng ông Nguyễn Văn H đã tự nguyện đi đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn vào ngày 01-10-1996 tại Uỷ ban nhân dân xã Tà Đảnh, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn bà và ông Nguyễn Văn H về sống tại ấp Tân Thạnh, xã Tà Đảnh, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, thời gian đầu chung sống vợ chồng hạnh phúc, nhưng đến khoảng đầu năm 2019, giữa bà và ông H xảy ra mâu thuẩn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, nhiều lần cải vã, mặc dù bà đã nhiều lần khuyên ngăn., khoảng tháng 01-2022 bà có gửi đơn đến Tòa án xin ly hôn, ông H xin đoàn tụ nên bà đã rút đơn để hàn gắn tình cảm vợ chồng, nhưng ông H vẫn không thay đổi. Vợ chồng bà đã ly thân nhau từ 2-2022 đến nay. Nay nhận thấy bà không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng cùng ông Nguyễn Văn H, bà xin ly hôn với ông Nguyễn Văn H.

Về con chung: Có 03 con chung tên Nguyễn Văn H1, sinh ngày 19-01-1997; Nguyễn Văn Vũ L, sinh ngày 20-3-1998; Nguyễn Thị Thanh N, sinh ngày 28-6-2003, hiện nay các cháu đã trưởng thành và sống tự lập được, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Văn H Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông Nguyễn Văn H để tham gia tố tụng nhưng ông vắng mặt không rỏ lý do, nên không tiếp nhận lời khai của ông Nguyễn Văn H.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị X vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông Nguyễn Văn H; về con chung: Đã trưởng thành và sống tự lập được, không yêu cầu Tòa án giải quyết; tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Văn H Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông Nguyễn Văn H để tham gia tố tụng nhưng ông Nguyễn Văn H vắng mặt không rõ lý do.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

- Về việc chấp hành pháp luật: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình tại Điều 70 BLTTDS. Tuy nhiên bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt là vi phạm Điều 72 BLTTDS.

- Về ý kiến việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào nội dung và các tài liệu có trong hồ sơ nhận thấy vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẩn do bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, ông H thường xuyên chửi mắng vô cớ và đã ly thân, ngoài ra trước đây bà X có làm đơn xin ly hôn nhưng sau đó đã rút lại đơn để hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, nhưng ông H vẫn không thay đổi. Do đó, nhận thấy mâu thuẩn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn lại, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn với ông H là có căn cứ chấp nhận.

Về quan hệ con chung: Có 03 con chung tên Nguyễn Văn H1, sinh ngày 19-01- 1997; Nguyễn Văn Vũ L, sinh ngày 20-3-1998; Nguyễn Thị Thanh N, sinh ngày 28-6- 2003, hiện nay các cháu đã trưởng thành và sống tự lập được, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Từ những chứng cứ trên, xét thấy bà X xin ly hôn với ông H là có căn cứ chấp nhận.

Từ những phân tích nêu trên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phân tích, đánh giá về vụ án như sau:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Văn H cư trú tại tổ 1, ấp Tân Thạnh, xã Tà Đảnh, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, quan hệ tranh chấp là quan hệ hôn nhân và gia đình là loại tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và theo quy định khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm, ông H vẫn vắng mặt không rỏ lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt đối với ông Nguyễn Văn H.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị X và ông Nguyễn Văn H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn vào ngày 01- 10-1996 theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bà X và ông H hạnh phúc được thời gian, đến khoảng năm 2019 vợ chồng xảy ra mâu thuẩn, bà X cho rằng cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông H không hạnh phúc, thường xuyên cải vả, mặc dù bà đã nhiều lần khuyên ngăn và hàn gắn, tháng 01-2022 bà đã gửi đơn xin ly tại Tòa án, sau đó bà rút lại đơn ly hôn để hàn gắn tình cảm vợ chồng, nhưng ông H không thay đổi. Nay bà Nguyễn Thị X xin ly hôn ông Nguyễn Văn H.

Quá trình tố tụng của Tòa án, cũng như tại phiên tòa, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Văn H, nhằm đảm bảo quyền lợi của ông Nguyễn Văn H theo quy định của pháp luật để ông Nguyễn Văn H được trình bày ý kiến, nhưng ông Nguyễn Văn H vẫn vắng mặt và ông có có ý kiến gì đối với yêu cầu của bà Nguyễn Thị X. Do vậy, Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông Nguyễn Văn H.

Hội đồng xét xử nhận thấy Hôn nhân là nhằm giúp vợ chồng xây dựng gia đình no ấm, hạnh phúc, nhưng do vợ chồng không có tiếng nói chung trong việc giải quyết cuộc sống gia đình, tuy nhiên giữa bà X và ông H không hạnh phúc trong cuộc sống hôn nhân, bất đồng quan điểm sống, giữa bà X và ông H không giành thời gian quan tâm chăm sóc gia đình, chia sẻ, động viên nhau trong công việc cũng như trong cuộc sống gia đình, trước đó vào khoảng tháng 01-2022 bà X đã gửi đơn ly hôn đến Tòa án, sau đó bà đã rút lại đơn cho ông H cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng, nhưng ông H không thay đổi, bà và ông H đã ly thân tháng 2-2022 đến nay, nhưng từ khi ly thân đến nay hai bên cũng không gặp gỡ nhau nhằm hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Từ đó Hội đồng xét xử nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị X và ông Nguyễn Văn H rơi vào tình trạng trầm trọng, tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị X về việc yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về quan hệ con chung: Có 03 con chung tên Nguyễn Văn H1, sinh ngày 19-01- 1997; Nguyễn Văn Vũ L, sinh ngày 20-3-1998; Nguyễn Thị Thanh N, sinh ngày 28-6- 2003, hiện nay các cháu đã trưởng thành và sống tự lập được, bà X không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị X là nguyên đơn trong vụ án hôn nhân và gia đình, bà X phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 266, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị X.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị X được ly hôn với ông Nguyễn Văn H Giấy chứng nhận kết hôn số 01/GKH, ngày 01 tháng 10 năm 1996 của Ủy ban nhân dân xã Tà Đảnh, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

Về quan hệ con chung: Không xem xét giải quyết.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị X phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà X đã nộp theo biên lai thu số 0008401 ngày 17 tháng 5 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tri Tôn Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 81/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:81/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về