Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 63/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 22 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 79/2022/TLST-HNGD, ngày 29 tháng 3 năm 2022 về việc tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 139 /2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 86/2022/QĐ-ST-HNGĐ ngày 06/9/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thị Hồng T, sinh năm 1990;

Nơi ĐKHKTT: Khu phố C, thị trấn T, huyện A B, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở hiện nay: Khu phố A, thị trấn T, huyện A B, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Anh Danh S, sinh năm 1988;

Địa chỉ: Khu phố C, thị trấn T, huyện A B, tỉnh Kiên Giang.

(Chị T có mặt; anh S vắng mặt lần 02 không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án chị Thị Hồng T trình bày như sau:

Chị T và anh S chung sống với nhau vào năm 2007, hôn nhân tự nguyện, không có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương, anh chị có thực hiện việc đăng ký kết hôn tại tại UBND thị trấn T, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang vào ngày 07/5/2012.

Vợ chồng chung sống đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuân là do vợ chồng thường xuyên cự cãi, bất đồng về quan điểm sống, anh S có thói ăn chơi, cờ bạc, nhậu nhẹt, dẫn đến đời sống vợ chồng không hạnh phúc, vợ chồng đã hàn gắn nhưng không được, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng ly thân từ tháng 9 năm 2020 đến nay.

Về quan hệ hôn nhân: Chị T yêu cầu được ly hôn với anh S.

Về con chung: Có 02 con chung tên Danh Vĩ K, sinh ngày 29/4/2008 và Danh Quốc T, sinh ngày 02/8/2014, chị T yêu cầu được nuôi 02 con và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ và người khác nợ vợ chồng: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra không trình bày và yêu cầu gì thêm.

Bị đơn anh Danh S vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và vắng mặt tại phiên tòa đồng thời không gửi văn bản nêu ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa hôm nay: Chị T giữ nguyên yêu cầu, ý kiến như đã trình bày. Anh Danh S vắng mặt nên không ghi nhận ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đảm bảo đúng theo quy định, đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập lần 02 nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, xử cho chị T được ly hôn với anh S; Về con chung: Giao 02 con chung tên Danh Vĩ K, sinh ngày 29/4/2008 và Danh Quốc T, sinh ngày 02/8/2014 (Theo nguyện vọng cháu K và cháu T) cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ và người khác nợ vợ chồng: Chị T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Do bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên theo quy định tại Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Đối với bị đơn anh S vắng mặt tại phiên tòa lần 02 không có lý do. Căn cứ vào Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thống nhất tiến hành xét xử vắng bị đơn.

[3] Về nội dung vụ án: Chị T yêu cầu được ly hôn với anh S và yêu cầu giải quyết vấn đề con chung nên quan hệ pháp luật của vụ án được xác định là “Ly hôn, nuôi con chung”.

Chị T kết hôn với anh S trên cơ sở tự nguyện và đã thực hiện việc đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã thị trấn T, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang vào ngày 07/5/2012, nên hôn nhân giữa anh, chị là hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh S vẫn vắng mặt không lý do, không thể hiện hiện ý chí hàn gắn hôn nhân trước yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị T, vợ chồng đã tự ly thân từ cuối năm 2020 đến nay, không còn quan tâm chăm lo, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa anh, chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn với anh S.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Danh Vĩ K, sinh ngày 29/4/2008 và Danh Quốc T, sinh ngày 02/8/2014. Cháu Kh và cháu T có nguyện vọng được sống với mẹ. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu K và cháu T cho chị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ và người khác nợ vợ chồng: Chị T xác định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị T có nghĩa vụ nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[5] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở chấp nhận theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 39, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Thị Hồng T được ly hôn với anh Danh S.

2. Về con chung: Giao 02 người con chung tên Danh Vĩ K, sinh ngày 29/4/2008 và Danh Quốc T, sinh ngày 02/8/2014 (Theo nguyện vọng cháu K và cháu T) cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của chị T về việc không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Anh S không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai đươc ngăn cản, tuy nhiên anh S không được lạm dụng quyền thăm nom con. Vì lợi ích của con, khi cần thiết cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ và người khác nợ vợ chồng: Chị T xác định không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Thị Hồng T có nghĩa vụ nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số 0004753 ngày 23 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Thị Hồng T đã nộp xong án phí.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, chị T có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh S vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 63/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:63/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về