Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 13/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 13/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/02/2024 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 488/2023/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2023 về tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2024/QĐXX-ST ngày 12 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Ngô Bửu T, sinh năm 1980 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã V, thành phố B, tỉnh B.

- Bị đơn: Ông Nghiêm Sà R, sinh năm 1973 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã V, thành phố B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện bà Ngô Bửu T là nguyên đơn trong vụ án trình bày:

- Về hôn nhân: Bà và ông Nghiêm Sà R tự nguyện chung sống vợ chồng từ năm 2011, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng từ cuối năm 2016 đến nay vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường hay xảy ra cãi vã. Hơn nữa vợ chồng bà đã sống ly thân từ năm 2023 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà xin ly hôn với ông Nghiêm Sà R.

- Về con chung: Quá trình chung sống bà và ông R có 01 con chung tên Ngô Gia M, sinh ngày 07/12/2011 (Hiện nay cháu M đang sống chung cùng bà T). Khi ly hôn bà T yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu ông R cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 20/11/2023 và trong quá trình tham gia giải quyết vụ án ông Nghiêm Sà R là bị đơn trong vụ án trình bày:

- Về hôn nhân: Ông thống nhất với ý kiến của bà T về quá trình chung sống vợ chồng từ năm 2011. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã V, thành phố B, tỉnh B vào ngày 23/3/2015. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng từ cuối năm 2016 đến nay vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Những mâu thuẫn giữa vợ chồng chỉ là cãi vã nhau về một vài chuyện nhỏ trong gia đình và một phần do bà T bị bệnh động kinh. Nay bà T xin ly hôn với ông thì ông không đồng ý vì ông còn thương vợ, thương con.

- Về con chung: Ông và bà T có 01 con chung tên Ngô Gia M, sinh ngày 07/12/2011 (Hiện cháu M đang sống cùng bà T). Khi ly hôn ông đồng ý giao con chung cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

- Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh B phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ theo thủ tục tố tụng và các văn bản có liên quan nên về hình thức tố tụng Viện kiểm sát xét thấy bảo đảm đủ điều kiện và hợp pháp.

- Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Bà T và ông R chung sống có đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng đã mâu thuẫn và đã ly thân một thời gian dài, không thể hàn gắn được nên việc bà T yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận.

Về con chung: Bà T và ông R có 01 con chung là Ngô Gia M, sinh ngày 07/12/2011 (Hiện nay cháu M đang sống cùng bà T). Bà T yêu cầu được nuôi cháu M, ông R cũng đồng ý kiến giao con chung cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và cháu M có nguyện vọng sống với mẹ, đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu M cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng: Bà T không yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung nên không đặt ra giải quyết tại phiên tòa hôm nay.

Về nợ chung: Không có nợ chung nên không đặt ra giải quyết tại phiên tòa hôm nay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án; sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, sau khi thảo luận Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Ngô Bửu T khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là ông Nghiêm Sà R nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là ông R hiện đang cư trú tại thành phố B, tỉnh B nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn là bà Ngô Bửu T có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn là ông Nghiêm Sà R đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn bà T và bị đơn là ông R theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự là phù hợp.

[3] Xét quan hệ hôn nhân: Bà T và ông R tự nguyện chung sống vợ chồng từ năm 2011, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên quan hệ hôn nhân của chị bà T và ông R là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Bà T và ông R xác định giữa hai vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn từ năm 2016 đến nay. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống ông R hay cãi vã với bà T và gia đình cha mẹ ruột của bà T. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa chị bà T và ông R là có xảy ra trên thực tế. Vì vậy, tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông R là nghiêm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nhưng ông R không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, giữa bà T và ông R đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, hơn nữa bà T và ông R đã sống ly thân từ năm 2023 đến nay. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T.

[4] Về con chung: Bà T và ông R thống nhất xác định trong thời gian chung sống ông bà có 01 con chung tên Ngô Gia M, sinh ngày 07/12/2011. Khi ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Ông R cũng đồng ý giao con chung cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Đây là sự tự nguyện của đương sự, phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với ý kiến của cháu M nên có cơ sở giao cháu M cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ông R có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được quyền ngăn cản.

[5] Về cấp dưỡng: Bà T không yêu cầu ông R cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung: Không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Về nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: Bà T yêu cầu ly hôn với ông R nên bà T phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng.

[9] Như đã phân tích ở trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

 - Điều 5, 28, 35, 39, 71, 147, 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/. Về hôn nhân: Xử cho bà Ngô Bửu T được ly hôn với ông Nghiêm Sà R.

2/. Về con chung: Giao cháu Ngô Gia M, sinh ngày 07/12/2011 cho bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục (Hiện cháu M đang sống cùng bà T). Ông Nghiêm Sà R có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền cản trở.

3/. Về cấp dưỡng: Bà T không yêu cầu ông R cấp dưỡng nuôi con.

4/. Về tài sản chung, nợ chung: Không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5/. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm bà Ngô Bửu T phải nộp 300.000 đồng. Bà T đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0002154 ngày 15 tháng 11 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh B được chuyển thu án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai, các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 13/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về