TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 27 tháng 07 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 127/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 04 năm 2022, về việc “Tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 06 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2022/QĐST-HN ngày 11/07/2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh ngày 1982 (Có mặt) Địa chỉ: Số 956/10A đường T, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.
2. Bị đơn: Anh Lê Hữu T1, sinh năm 1978 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 956/10A đường T, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 11/03/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Nguyễn Thị T1 trình bày: Tôi và anh T1 tự tìm hiểu nhau rồi chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2001, không có tổ chức lễ cưới nhưng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 16 ngày 02/02/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng tôi về sống gia đình bên chồng tại số 956/10A đường T, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang đến nay.
Nguyên nhân xin ly hôn: Sau khi cưới thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian sau phát sinh mâu thuẫn nhỏ nhưng đến tháng 09/2017 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng và vợ chồng ly thân từ tháng 02/2020 đến nay. Do tính tình không hòa hợp, trong cách sống, ngoài ra anh T1 còn có tình cảm quen hệ trai gái và chung sống như vợ chồng với người phụ nữ khác bên ngoài, mặc dù tôi có khuyên anh T1 nhiều lần để vợ chồng chung sống cùng chăm lo cho gia đình nhưng anh T1 không thay đổi. Nay xét thấy cuộc sống vợ chồng giữa tôi với anh T1 không thể hàn gắn được, do đó tôi yêu cầu được ly hôn với anh Lê Hữu T1.
Về con chung: Chị Nguyễn Thị N xác định vợ chồng chung sống có 01 người con chung tên Lê Hữu T2, sinh ngày 30/11/2011, chị N yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị N xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, chị N xác định không còn tình cảm yêu thương với anh T1 nữa và yêu cầu được ly hôn với anh T1.
Về con chung: Chị N yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị N xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh Lê Hữu T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, không có yêu cầu phản tố và không có văn bản trình bày ý kiến về việc khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị N khởi kiện xin ly hôn và yêu cầu nuôi con chung với bị đơn anh Lê Hữu T1 và anh T1 là bị đơn có nơi cư trú tại thành phố G, tỉnh Kiên Giang nên Tòa án xác định quan hệ pháp luật của vụ án là "Tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung"; theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố G.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Lê Hữu T1 không có ý kiến trình bày về đơn khởi kiện xin ly hôn của chị N tại Tòa án. Tuy nhiên, Toà án đã làm đầy đủ thủ tục theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự như: Giao thông báo thụ lý vụ án và tống đạt các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh T1 vắng mặt không đến Toà án. Tại phiên tòa, nguyên đơn chị N yêu cầu xét xử vắng mặt bị đơn anh T1 theo quy định pháp luật. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định xét xử vắng mặt anh T1.
[3] Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị N và anh Lê Hữu T1 được xác lập trên cơ sở tự nguyện; Không có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán nhưng có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, đã được UBND phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 16, ngày 02/02/2016 nên đây là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật công nhận.
[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh T1, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình chung sống vợ chồng chị N và anh T1 không còn yêu thương, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau để xây dựng mái ấm gia đình bền vững, hạnh phúc. Bởi lẻ, chị N xác nhận thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian sau bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nhỏ, đến tháng 09/2017 phát sinh mâu thuẫn gây gắt và sống ly thân từ tháng 02/2020 đến nay. Nguyên nhân là do tính tình hai bên không hòa hợp trong cách sống. Ngoài ra, anh T1 còn có tình cảm trai gái và chung sống như vợ chồng với người phụ nữ khác bên ngoài mặc dù chị N có khuyên anh T1 nhiều lần nhưng anh T1 không thay đổi. Căn cứ khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về ngh a vụ chứng minh của đương sự “Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó”. Anh T1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, anh T1 không có sự phản đối nào đối với yêu cầu của chị N cũng như chứng cứ do chị N cung cấp.
Từ đó cho thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh T1 đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh T1 là hoàn toàn có căn cứ phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Từ những cơ sở nhận định trên, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N đối với anh T1.
[5] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị N xác định vợ chồng chung sống có 01 người con chung tên Lê Hữu T2, sinh ngày 30/11/2011, chị N yêu cầu được nuôi con, xét thấy chị N là người trực tiếp nuôi cháu T2 từ nhỏ và cháu T2 phát triển tốt về mọi mặt, ngoài ra tại biên bản trình bày nguyện vọng của cháu T2 ngày 06/04/2022 cháu T2 cũng mong muốn được sinh sống cùng với mẹ (chị N). Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất giao người con cho chị N tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp. Chị N không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con nên hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị N tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị N xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét Anh T1 không có ý kiến trình bày tại Tòa án về vấn đề con chung, tài sản chung, nợ chung; nếu sau này anh T1 có tranh chấp về các vấn đề trên thì có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.
[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị N là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 228 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Điều 25, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Xử :
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Lê Hữu T1.
2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị N nuôi dưỡng người con tên Lê Hữu T2, sinh ngày 30/11/2011 đến tuổi trưởng thành, chị N không yêu cầu anh T1 cấp dưỡng nuôi con.
Anh Lê Hữu T1 có quyền và ngh a vụ đối với con chung không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị N xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị N xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
5. Về án phí : Buộc chị Nguyễn Thị N phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chị N được khấu trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002143 ngày 16/03/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố G, tỉnh Kiên Giang.
Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/07/2022), đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung số 48/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 48/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về