Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung số 34/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 34/2022/HNGĐ-ST NGÀY 01/06/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 01 tháng 06 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục chung vụ án thụ lý số 29/2022/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022, về việc “Tranh chấp xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 04 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 20/2022/QĐST-HN ngày 16 tháng 05 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lý Thanh K, sinh năm 1981 (Có mặt) HKTT: Số 56/20C đường Đ, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở hiện nay: Số 256B ấp T 1, xã H, huyện H1, tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Anh Phan Văn Giang, sinh năm 1978 (Vắng mặt) Địa chỉ: Số 56/20C đường Đ, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 16/12/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Lý Thanh K trình bày: Tôi và anh Phan Văn G1 được giới thiệu rồi quen nhau hơn 01 tháng thì được 02 bên gia đình tổ chức lễ tiên bố rồi về chung sống với nhau vào năm 1999, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 79 ngày 08/7/2013. Sau khi kết hôn hai vợ chồng tôi về sống gia đình bên vợ tại số 56/20C đường Đ, phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Nguyên nhân xin ly hôn: Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian sau phát sinh mâu thuẫn nhỏ, nhưng đến tháng 01/2021 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, tôi bỏ nhà đi làm ăn sau đó khoảng tháng 03/2021 thì anh G1 cũng bỏ nhà đi làm ở đâu tôi không biết và vợ chồng sống ly thân đến nay. Do vợ chồng không tin tưởng nhau, anh G1 ghen tuông rồi nhậu về kiếm chuyện chửi và đánh tôi nhiều lần, ngoài ra vợ chồng còn mâu thuẫn trong kinh tế gia đình không đủ sinh hoạt từ đó ngày càng phát sinh mâu thuẫn thường xuyên cự cải nhau. Nay xét thấy cuộc sống vợ chồng giữa tôi với anh G1 không thể hòa hợp và hàn gắn được nên tôi yêu cầu được ly hôn với anh G1.

Về con chung: Chị Lý Thanh K xác định vợ chồng chung sống có 02 người con chung tên Phan Ngọc S, sinh ngày 21/06/1999 và Phan Vĩ T, sinh ngày 25/10/2002 (Các con đã trưởng thành và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự), chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Lý Thanh K tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. quyết.

Về nợ chung: Chị Lý Thanh K xác định không có, không yêu cầu tòa án giải Tại phiên tòa, Nguyên đơn: Chị Lý Thanh K xác định không còn tình cảm yêu thương với anh G1 nữa và yêu cầu được ly hôn với anh G1.

Về con chung: Các con chung đã trưởng thành. Chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Lý Thanh K tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. quyết.

Về nợ chung: Chị Lý Thanh K xác định không có, không yêu cầu tòa án giải Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh Phan Văn G1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, không có yêu cầu phản tố và không có văn bản trình bày ý kiến về việc khởi kiện của nguyên đơn nên Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố G phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định. Riêng ông Phan Văn G1 không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án nên đã vi phạm Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của nguyên đơn chị Lý Thanh K được ly hôn với anh Phan Văn G1. Về con chung: Các con của chị K, anh G1 đã trưởng thành và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và chị K cũng không yêu cầu giải quyết; Tài sản chung: Chị K xác định tự thỏa thuận và nợ chung không có: Chị K không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Lý Thanh K khởi kiện xin ly hôn với bị đơn anh Phan Văn G1 và anh G1 là bị đơn có nơi cư trú cuối cùng tại thành phố G, tỉnh Kiên G1 nên Tòa án xác định quan hệ pháp luật của vụ án là "Tranh chấp xin ly hôn"; theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố G.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Phan Văn G1 không có ý kiến trình bày về đơn khởi kiện xin ly hôn của chị K tại Tòa án. Tuy nhiên, Toà án đã làm đầy đủ thủ tục theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự như: Giao thông báo thụ lý vụ án và tống đạt hợp lệ các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án xét xử; đồng thời Tòa án đăng báo tìm kiếm người vắng mặt nơi cư trú đối với anh G1 trên Đài tiếng nói Việt Nam và Báo công lý 03 kỳ liên tiếp nhưng anh G1 vắng mặt không đến Toà án. Tại phiên tòa, nguyên đơn chị K yêu cầu xét xử vắng mặt bị đơn anh G1 theo quy định pháp luật. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định xét xử vắng mặt anh G1.

[3] Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Lý Thanh K và anh Phan Văn G1 được xác lập trên cơ sở tự nguyện; Có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, đã được UBND phường B, thành phố G, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 79 ngày 08/7/2013 nên đây là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật công nhận.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị K đối với anh G1, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình chung sống vợ chồng chị K và anh G1 không còn yêu thương, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau để xây dựng mái ấm gia đình bền vững, hạnh phúc. Bởi lẻ, chị K xác nhận thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian sau bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nhỏ, đến tháng 01/2021 phát sinh mâu thuẫn gây gắt và sống ly thân đến nay. Nguyên nhân là do tính tình hai bên không hòa hợp trong cách sống, cư xử. Ngoài ra, anh G1 còn ghen tuông rồi nhậu về kiếm chuyện chửi và đánh chị K nhiều lần. Trong thời gian chị K, anh G1 sống ly thân nhưng vẫn không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Căn cứ khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định về nghĩa vụ chứng minh của đương sự “Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản và phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó”. Anh G1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng trong suốt quá trình giải quyết vụ án, anh G1 không có sự phản đối nào đối với yêu cầu của chị K cũng như chứng cứ do chị K cung cấp.

Từ đó cho thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị K và anh G1 đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị K đối với anh G1 là hoàn toàn có căn cứ phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Từ những cơ sở nhận định trên, Hội đồng xét xử thống nhất chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị K đối với anh G1.

[5] Về quan hệ con chung: Chị Lý Thanh K xác định vợ chồng chung sống có 02 người con chung tên Phan Ngọc S, sinh ngày 21/06/1999 và Phan Vĩ T, sinh ngày 25/10/2002 hiện nay các con đã trưởng thành và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung: Chị Lý Thanh K xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về nợ chung: Chị Lý Thanh K xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh G1 không có ý kiến trình bày tại Tòa án về vấn đề con chung, tài sản chung, nợ chung; nếu sau này anh G1 có tranh chấp về các vấn đề trên thì có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.

[8] Xét ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố G là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lý Thanh K là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 228 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 25, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lý Thanh K được ly hôn với anh Phan Văn G1.

2. Về con chung: Chị Lý Thanh K xác định vợ chồng chung sống có 02 người con chung tên Phan Ngọc S, sinh ngày 21/06/1999 và Phan Vĩ T, sinh ngày 25/10/2002 hiện nay các con đã trưởng thành và có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, chị K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Lý Thanh K xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Lý Thanh K xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về n ph : Chị Lý Thanh K phải nộp án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chị K được khấu trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001971 ngày 12/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố G, tỉnh Kiên Giang.

Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 01/06/2022), đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung số 34/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về