Bản án về tranh chấp xin ly hôn (chồng bỏ đi sống chung với người phụ nữ khác) số 108/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 108/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 18 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 242/2022/TLST-HN ngày 13 tháng 5 năm 2022 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thanh H, sinh năm 1992 Địa chỉ: đường NVC, khóm 1, thị trấn TT, huyện TT, tỉnh An Giang.

2/. Bị đơn: Anh Trần Minh Q, sinh năm 1991 Địa chỉ: ấp TTB, xã ATA, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu (Chị H có đơn xin vắng mặt, anh Quý vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 05/5/2022 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Phạm Thị Thanh H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Trần Minh Q cưới nhau vào khoảng năm 2011, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn TT vào ngày 12/8/2011 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị H xác định: thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng sau đó khoảng 03 năm thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Lý do chồng chị có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và đã bỏ chị sống chung với người đó. Vợ chồng anh chị đã ly thân khoảng 08 năm qua. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng cũng không thể hàn gắn lại được và chị cũng không còn tình cảm gì với chồng chị, nên chị H yêu cầu xin được ly hôn với chồng chị là anh Trần Minh Q.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng anh chị có một người con chung tên Trần Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 08/02/2012. Từ lúc vợ chồng ly thân thì con sống cùng với chị đến nay. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu chồng chị phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: chị H xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có nợ chung. Khi ly hôn chị H không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đối với anh Trần Minh Q: Mặc dù anh Quý đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Quý vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh Quý theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Trần Minh Q chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: giữa chị H và anh Quý kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn với anh Quý là phù hợp với quy định của pháp luật;

Về con chung: Từ lúc chị H và anh Quý ly thân thì con là Trần Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 08/02/2012 sống cùng với chị H đến nay. Chị H vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, đồng thời nguyện vọng của người con là Trần Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 08/02/2012 cũng mong muốn được tiếp tục sống cùng với chị H. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử giao người con là Trần Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 08/02/2012 cho chị H được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn chị H và anh Quý không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí thì chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị H có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh Quý. Anh Quý có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị H có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị H.

Anh Quý đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh Quý vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Quý.

[2] Về nội dung vụ án: giữa chị H và anh Quý kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân thị trấn TT cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 12/8/2011 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh Quý thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị H và anh Quý lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân từ cách đây khoảng 08 năm. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Điều này chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của chị H và anh Quý là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh Quý là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về nuôi con chung: Từ lúc chị H và anh Quý ly thân thì con là Trần Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 08/02/2012 sống cùng với chị H đến nay. Chị H vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, đồng thời nguyện vọng của người con là Trần Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 08/02/2012 cũng mong muốn được tiếp tục sống cùng với chị H. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giao người con là Trần Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 08/02/2012 cho chị H được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con do chị H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị H và anh Quý không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận, Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Thanh H; Xử cho chị Phạm Thị Thanh H được ly hôn với anh Trần Minh Q.

2/. Về nuôi con chung: Giao người con là Trần Thị Huỳnh Nh, sinh ngày 08/02/2012 cho chị Phạm Thị Thanh H được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.

Anh Quý có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Chị H không yêu cầu anh Quý phải cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Quý.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: chị Phạm Thị Thanh H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0002152 ngày 16 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Phạm Thị Thanh H và anh Trần Minh Q biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn (chồng bỏ đi sống chung với người phụ nữ khác) số 108/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:108/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về