TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 51/2023/DS-ST NGÀY 02/06/2023 VỀ TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ ĐẶT CỌC
Ngày 02 tháng 06 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 252/2022/TLST-DS ngày 19/12/2022, về việc tranh chấp về hợp đồng dân sự đặt cọc, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2023/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 05 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thảo H, sinh năm 1985, nơi cư trú: số nhà 201, đường Trần Hưng Đạo, xóm 4, khu phố Lạc Hưng 2, thị trấn Lạc Tánh, huyện T, tỉnh B. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Ngô C, sinh năm 1957 và bà Phan Thị Th, sinh năm 1961, cùng nơi cư trú: Xóm 6, khu phố Lạc Hưng 1, thị trấn Lạc Tánh, huyện T, tỉnh B. Vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn ông C, bà Th, đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Ngô Anh Tr, sinh năm 1984, nơi cư trú: Xóm 10, khu phố Lạc Hưng 1, thị trấn Lạc Tánh, huyện T, tỉnh B. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1983, nơi cư trú: Xóm 10, khu phố Lạc Hưng 1, thị trấn Lạc Tánh, huyện T, tỉnh B. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
[1]. Theo đơn khởi kiện và lời khai, ý kiến đã thu thập được trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thảo H trình bày:
Ngày 27/08/2022, nguyên đơn chị H và bị đơn ông Ngô C, bà Phan Thị Th đã tự nguyện xác lập, ký kết hợp đồng đặt cọc để đảm bảo thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, với nội dung: ông C, bà Th chuyển nhượng cho chị H quyền sử dụng diện tích đất có kích thước chiều ngang khoảng 6m x chiều dài khoảng 75m, tọa lạc tại khu phố Lạc Hưng 1, thị trấn Lạc Tánh, huyện T, tỉnh B, thuộc một phần thửa đất số 98 tờ bản đồ 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 347824 cấp ngày 24/6/1999 và tất cả tất tài sản trên đất, trong có 01 căn nhà xây cấp 4; giá chuyển nhượng là 620.000.000đồng; thanh toán theo phương thức ngày 27/8/2022 đặt cọc 100.000.000đồng, còn lại 520.000.000đồng sẽ thanh toán khi hai bên ký đầy đủ giấy tờ, thủ tục chuyển nhượng và công chứng, chứng thực theo đúng quy định; thời hạn thanh toán và làm thủ tục công chứng, chứng thực, chuyển nhượng là đến hết ngày 15/11/2022; bên chuyển nhượng có nghĩa vụ trả các chi phí liên quan đến việc chuyển nhượng; bên chuyển nhượng cam kết tài sản chuyển nhượng không có tranh chấp và tài sản chuyển nhượng thuộc quyền sử dụng, sở hữu của bên chuyển nhượng đã được cấp quyền sử dụng, sở hữu đầy đủ; bên chuyển nhượng hổ trợ cho bên nhận chuyển nhượng chuyển nhượng lại cho bên thứ 3; quá thời hạn thỏa thuận nêu trên nếu bên chuyển nhượng không chuyển nhượng tài sản cho bên nhận chuyển nhượng thì bên chuyển nhượng phải bồi thường cho bên nhận chuyển nhượng gấp 02 lần số tiền đã đặt cọc. Ngoài ra hai bên còn thỏa thuận bằng lời nói, thống nhất sau khi ký đầy đủ hồ sơ, thủ tục chuyển nhượng và công chứng, chứng thực sẽ tiến hành bàn giao tài sản chuyển nhượng. Thực hiện hợp đồng, cùng ngày 27/8/2022 chị H đã giao đủ 100.000.000đồng tiền đặt cọc cho ông C, bà Th. Từ đó đến nay, mặc dù chị H đã nhiều lần yêu cầu nhưng ông C, bà Th không thực hiện mà yêu cầu chị H phải trả thêm 70.000.000đồng thì mới đồng ý thực hiện. Do ông C, bà Th không thực hiện đúng hợp đồng nên chị H không đồng ý trả thêm 70.000.000đồng. Vì vậy đến nay các bên vẫn chưa thực hiện xong hợp đồng đặt cọc. Chị H xác lập hợp đặt cọc nêu trên với ông C, bà Th, không xác lập với anh Ngô Anh Tr; chị H cũng đã giao 100.000.000đồng tiền đặt cọc cho ông C, bà Th trực tiếp nhận, không giao cho anh Tr; việc ông C, bà Th cho anh Tr số tiền tiền đặt cọc thì chị H không biết. Mục đích chị H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất này để chuyển nhượng lại cho người khác nhằm hưởng lợi chênh lệch giá nhưng do ông C, bà Th không thực hiện hợp đồng, làm kéo dài thời gian, giá thị trường đã sụt giảm. Vì vậy hiện nay chị H yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau: Hủy bỏ hợp đồng đặt cọc mà chị H và ông C, bà Th đã xác lập ngày 27/8/2022, về việc đặt cọc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất khoảng 6m ngang x 75m dài, tọa lạc tại khu phố Lạc Hưng 1, thị trấn Lạc Tánh, huyện T, tỉnh B, thuộc thửa đất số 98 tờ bản đồ 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 347824 cấp ngày 24/6/1999; đồng thời giải quyết hậu quả hủy bỏ hợp đồng: Buộc ông C, bà Th phải trả lại cho chị H 100.000.000đồng tiền đã đặt cọc. Chị H không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng; ngoài ra chị H không có yêu cầu nào khác trong vụ án.
[2]. Theo lời khai, ý kiến trong quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa hôm nay, bên bị đơn ông Ngô C, bà Phan Thị Th do người đại diện theo ủy quyền anh Ngô Anh Tr trình bày:
Ông Ngô C, bà Phan Thị Th là cha mẹ ruột của anh Ngô Anh Tr; anh Tr và chồng của chị Nguyễn Thị N. Thực tế trước đây ông C, bà Th không có ý định chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất khoảng 6m ngang x 75m dài, tọa lạc tại khu phố Lạc Hưng 1, thị trấn Lạc Tánh, huyện T, tỉnh B, thuộc một phần thửa đất số 98 tờ bản đồ 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 347824 cấp ngày 24/6/1999. Tuy nhiên khoảng tháng 08/2022, anh Tr không có tiền trả nợ cho người khác nên ông C, bà Th đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất này lấy tiền để cho anh Tr trả nợ. Ngày 27/08/2022, ông C, bà Th và chị Nguyễn Thị Thảo H đã tự nguyện xác lập, ký kết hợp đồng đặt cọc để đảm bảo thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, với nội dung: ông C, bà Th chuyển nhượng cho chị H quyền sử dụng diện tích đất nêu trên và tất cả tất tài sản trên đất, trong đó có 01 căn nhà xây cấp 4 do vợ chồng anh Tr, chị N xây dựng vào năm 2011; tổng giá chuyển nhượng là 620.000.000đồng; thanh toán theo phương thức ngày 27/8/2022 đặt cọc 100.000.000đồng, còn lại 520.000.000đồng sẽ thanh toán khi hai bên ký đầy đủ giấy tờ, thủ tục chuyển nhượng và công chứng, chứng thực theo đúng quy định; thời hạn thanh toán và làm thủ tục công chứng, chứng thực, chuyển nhượng là đến hết ngày 15/11/2022. Thực hiện hợp đồng, ngày 27/8/2022 chị H đã giao cho ông C, bà Th 100.000.000đồng tiền đặt cọc; ông C, bà Th đã giao 100.000.000đồng này cho anh Tr. Thời điểm đó ông C, bà Th đang thế chấp quyền sử dụng đất này để vay vốn của N hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện T nhưng anh Tr không biết; anh Tr đã sử dụng trả nợ cá nhân hết 100.000.000đồng tiền đặt cọc, không còn tiền trả nợ vay để xóa thế chấp nên không thể thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho chị H theo hợp đồng đặt cọc. Sau đó bà Th, ông C yêu cầu chị H thanh toán thêm số tiền 70.000.000đồng tiền chuyển nhượng để ông C, bà Th trả nợ vay nhằm xóa thế chấp để thực hiện thủ tục chuyển nhượng nhưng chị H không đồng ý nên đến nay hai bên vẫn chưa thực hiện xong hợp đồng đặt cọc. Tại thời điểm xác lập hợp đồng đặt cọc thì ông C, bà Th, anh Tr không thông báo cho chị N biết và cũng không thông qua ý kiến của chị N. Hiện nay ông C, bà Th không có điều kiện để trả lại 100.000.000đồng tiền đặt cọc cho chị H nên ông C, bà Th không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị H; ông C, bà Th chỉ đồng ý tiếp tục thực hợp đồng đặt cọc mà hai bên đã xác lập ngày 27/8/2022. Ngoài ra ông C, bà Th không có yêu cầu gì trong vụ án.
[3]. Theo lời khai, ý kiến trong quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa hôm nay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Ngô Anh Tr trình bày:
Ông Ngô C, bà Phan Thị Th là cha mẹ ruột của anh Ngô Anh Tr; anh Tr và chồng của chị Nguyễn Thị N. Về hợp đồng đặt cọc mà ông Ngô C, bà Phan Thị Th và chị Nguyễn Thị Thảo H đã xác lập ngày 27/8/2022 và việc ông C, bà Th sử dụng 100.000.000đồng tiền đặt cọc thì anh Tr trình bày giống như nội dung bên bị đơn ông C, bà Th đã trình bày nêu trên. Ngoài ra anh Tr còn trình bày: anh Tr đã sử dụng 100.000.000đồng để trả nợ cá nhân, không có sử dụng vào mục đích chung của vợ chồng, gia đình; trên đất thỏa thuận chuyển nhượng có 01 căn nhà xấp cấp 4 do vợ chồng anh Tr, chị N xây dựng vào năm 2011; khi xác lập hợp đồng đặt cọc nêu trên thì ông C, bà Th, anh Tr không thông báo cho chị N được biết, không thông qua ý kiến của chị N vì sợ chị N không đồng ý. Hiện nay anh Tr thống nhất với ý kiến của ông C, bà Th; ngoài ra anh Tr không có yêu cầu gì trong vụ án.
[4]. Theo lời khai, ý kiến trong quá trình chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa hôm nay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị N trình bày:
Ông Ngô C, bà Phan Thị Th là cha mẹ ruột của anh Ngô Anh Tr; anh Tr và chồng của chị N. Nguồn gốc thửa đất số 98 tờ bản đồ 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 347824 cấp ngày 24/6/1999, tọa lạc tại khu phố Lạc Hưng 1, thị trấn Lạc Tánh, huyện T, tỉnh B là đất được cấp quyền sử dụng cho hộ ông C, bà Th. Vào năm 2011, hộ ông C, bà Th cho vợ chồng chị N, anh Tr sử dụng thửa đất này nhưng chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền. Cũng trong năm 2011, chị N, anh Tr xây dựng nhà ở cấp 4 trên đất, tổng chi phí xây dựng nhà này khoảng 200.000.000đồng. Từ đó chị N, anh Tr sử dụng đất này ổn định cho đến nay và hiện nay vẫn đang trực tiếp sử dụng. Trước đây chị N hoàn toàn không biết việc ông C, bà Th và chị Hiện xác lập hợp đồng đặt cọc để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 98 nêu trên; khi xác lập hợp đồng, ông C, bà Th, anh Tr, chị H không thông báo cho chị N được biết, không thông qua ý kiến của chị N. Khoảng 01 tuần sau khi ông C, bà Th ký kết hợp đồng đặt cọc thì chị N mới viết sự việc. Cụ thể chị N biết thông tin: Ông C, bà Th và chị H thỏa thuận thống nhất xác lập hợp đồng đặt cọc với nội dung ông C, bà Th chuyển nhượng cho chị H quyền sử dụng đất nêu trên với giá 620.000.000đồng, đã lập hợp đồng đặt cọc, chị H đã thanh toán 80.000.000đồng tiền đặt cọc và anh Tr sử dụng tiêu xài hết cho cá nhân. Anh Tr không có sử dụng số tiền đặt cọc này vào mục đích chung của vợ chồng, gia đình. Vì vậy chị N không có nghĩa vụ phải trả lại tiền đặt cọc nêu trên cho chị H. Nếu phải chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 98 nêu trên cho chị H thì chị N đồng ý thực hiện hợp đồng chuyển nhượng này. Ngoài ra chị N không có yêu cầu gì trong vụ án.
[5] Các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án:
Tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp: 01 văn bản hợp đồng đặt cọc ghi ngày 27/8/2022.
Tài liệu, chứng cứ bị đơn cung cấp: Giấy chứng nhận quyề sử dụng đất số N 347824 cấp ngày 24/6/1999 (bản có chứng thực).
[6]. Ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T:
Ý kiến về việc tuân theo Pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Ý kiến đề nghị việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thảo H: Hủy bỏ hợp đồng đặt cọc mà ông ngô C, bà Phan Thị Th và chị Nguyễn Thị Thảo H đã xác lập ngày 27/8/2022; buộc ông Ngô C, bà Phan Thị Th có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Nguyễn Thị Thảo H 100.000.000đồng tiền đặt cọc; miễn nộp tiền án phí cho ông C, bà Th; trả lại cho chị H tiền tạm ứng án phí đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nghe các đương sự trình bày; nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu ý kiến, quan điểm giải quyết vụ án. Sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Bị đơn ông Ngô C, bà Phan Thị Th vắng mặt nhưng đã có người đại diện hợp pháp - anh Ngô Anh Tr tham gia phiên tòa; các đương sự có mặt tại phiên tòa và Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tham gia phiên tòa đều đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông C, bà Th là đúng quy định của pháp luật.
[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:
Trong vụ án, chỉ có yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu bị đơn trả cho nguyên đơn 100.000.000đồng tiền đặt cọc; ngoài ra các đương sự không có yêu cầu nào khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp về hợp đồng dân sự đặt cọc” căn cứ theo quy định khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 328 của Bộ luật dân sự 2015 là phù hợp.
Tranh chấp dân sự quy định tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự; vụ án không có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp; bị đơn có nơi cư trú tại huyện T, tỉnh B. Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án:
[3.1] Về yêu cầu hủy bỏ hợp đồng đặt cọc của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thảo H, Hội đồng xét xử nhận định:
Căn cứ văn bản hợp đồng đặt cọc ghi ngày 27/82022 mà nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thảo H đã cung cấp; căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 347824 cấp ngày 24/6/1999 mà bên bị đơn ông Ngô C, bà Phan Thị Th đã cung cấp; căn cứ lời khai thống nhất, phù hợp của các đương sự; có đủ cơ sở xác định được: Ngày 27/8/2022, chị H và ông C, bà Th đã tự nguyện xác lập, ký kết hợp đồng đặt cọc nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng diện tích đất có kích thước chiều ngang khoảng 6m x chiều dài khoảng 75m, tọa lạc tại khu phố Lạc Hưng 1, thị trấn Lạc Tánh, huyện T, tỉnh B, thuộc một phần thửa đất số 98 tờ bản đồ 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N 347824 cấp ngày 24/6/1999 và toàn bộ tài sản trên đất; tổng giá chuyển nhượng là 620.000.000đồng; thanh toán theo phương thức ngày 27/8/2022 đặt cọc 100.000.000đồng, còn lại 520.000.000đồng sẽ thanh toán khi hai bên ký đầy đủ giấy tờ, thủ tục chuyển nhượng và công chứng, chứng thực theo đúng quy định; thời hạn thanh toán và làm thủ tục công chứng, chứng thực, chuyển nhượng là 75 ngày kể từ ngày 27/8/2022. Ngoài ra trong quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa, các bên đương sự đều thừa nhận: quá trình thực hiện hợp đồng, vào ngày 27/8/2022 chị H đã thanh toán cho ông C, bà Th 100.000.000đồng tiền đặt cọc, đã thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng; các bên không thực hiện được hợp đồng đặt cọc là do ông C, bà Th không thực hiện các thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất và công chứng, chứng thực thủ tục chuyển nhượng trong thời hạn 75 ngày kể từ ngày 27/8/2022 như đã thỏa thuận trong hợp đồng; trên đất thỏa thuận chuyển nhượng có 01 căn nhà xây cấp 4 do vợ chồng anh Tr, chị N xây dựng nhưng khi xác lập hợp đồng thì ông C, bà Th không thông qua ý kiến của chị N và trong văn bản hợp đồng đặt cọc ông C, bà Th cam kết toàn bộ tài sản chuyển nhượng thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông C, bà Th đã được cấp quyền sử dụng đầy đủ dẫn đến hợp đồng không thực hiện được. Như vậy có đủ căn cứ xác định được: Trong hợp đồng đặt cọc mà chị H và ông C, bà Th xác lập ngày 27/8/2022 nêu trên thì chị H đã thực hiện đúng hợp đồng; ông C, bà Th đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng, làm cho chị H không đạt được mục đích giao kết hợp đồng, dẫn đến hợp đồng không thực hiện được. Do đó chị H có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 423 của Bộ luật dân sự năm 2015. Vì vậy yêu cầu của nguyên đơn chị H về việc hủy bỏ hợp đồng là có căn cứ, phù hợp với quy định điểm b khoản 1 Điều 423 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên cần chấp nhận, xử hủy bỏ hợp đồng đặt cọc mà nguyên đơn chị H và bị đơn ông C, bà Th đã xác lập ngày 27/8/2022.
[3.2] Về yêu cầu trả 100.000.000đồng tiền đặt cọc của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thảo H, Hội đồng xét xử nhận định:
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thảo H đã thực hiện đúng hợp đồng, không vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, bị đơn ông Ngô C, bà Phan Thị Th đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng, làm cho chị H không đạt được mục đích giao kết hợp đồng, dẫn đến hợp đồng bị hủy bỏ như nội dung đã nhận định tại mục [3.1] nêu trên. Vì vậy nguyên đơn chị H yêu cầu bị đơn ông C, bà Th phải trả lại tiền đặt cọc là có căn cứ, phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 427 và Điều 328 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên cần chấp nhận, xử buộc bị đơn ông C, bà Th có nghĩa vụ liên đới trả lại cho nguyên đơn chị H 100.000.000đồng đã đặt cọc.
[4] Về án phí:
Mặc dù yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thảo H được chấp nhận toàn bộ. Tuy nhiên ông C, bà Th đã trên 60 tuổi, là người cao tuổi theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi. Vì vậy cần căn cứ khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Xử miễn nộp tiền án phí cho ông Ngô C, bà Phan Thị Th và trả lại cho chị Nguyễn Thị Thảo H tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.
[6] Về ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh B: Ý kiến đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T về việc giải quyết vụ án là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147, các Điều 92, 227, 228, 235, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Điểm b khoản 1 Điều 423, khoản 2 Điều 427, Điều 328 của Bộ luật dân sự năm 2015;
- Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của của chị Nguyễn Thị Thảo H: Hủy bỏ hợp đồng đặt cọc mà chị Nguyễn Thị Thảo H và ông Ngô C, bà Phan Thị Th đã xác lập ngày 27/8/2022. Buộc ông Ngô C, bà Phan Thị Th có nghĩa vụ liên đới trả lại cho chị Nguyễn Thị Thảo H 100.000.000đồng (một trăm triệu đồng) đã đặt cọc.
Về án phí: Miễn nộp tiền án phí cho ông Ngô C, bà Phan Thị Th. Trả lại cho chị Nguyễn Thị Thảo H 5.300.000đồng (năm triệu ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011609 và số 0011612 cùng ngày 19/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh B.
Về nghĩa vụ thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án Dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay - Ngày 02/06/2023 (Đã giải thích quyền kháng cáo).
Bản án về tranh chấp về hợp đồng dân sự đặt cọc số 51/2023/DS-ST
Số hiệu: | 51/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tánh Linh - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 02/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về