Bản án về tranh chấp vay tài sản số 17/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 17/2021/DS-ST NGÀY 14/04/2021 VỀ TRANH CHẤP VAY TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 170/2020/TLST-DS ngày 21 tháng 12 năm 2020 về “Tranh chấp tiền vay” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2021/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 15/2021/QĐST-DS ngày 22 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Kiều T, sinh năm: 1977 Cư trú tại: Ấp K, xã Đ, huyện Ngọc H, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Ông Đinh Văn A, sinh năm 1965 Bà Lê Thị H, sinh năm 1975.

Cùng cư trú tại: Ấp K, xã Đ, huyện N, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 17/12/2020 nguyên đơn chị Nguyễn Kiều T trình bày: Từ tháng 7 đến ngày 30 tháng 10 năm 2018 chị có cho ông Đinh Văn A và vợ bà Lê Thị H vay tổng cộng với tổng số tiền 516.000.000 đồng lãi suất hai bên tự thỏa thuận. Thời gian đầu ông A, bà H có thanh toán được 16.000.000 đồng tiền gốc và sau đó không thanh toán cho chị. Do điều kiện công việc chị nhiều lần liên hệ yêu cầu ông A, bà H thanh toán số tiền gốc còn lại 500.000.000 đồng cho chị tuy nhiên ông A, bà H hứa hẹn tuy nhiên không thực hiện. Nay chị yêu cầu ông A và bà H có nghĩa vụ thanh toán cho chị số tiền gốc còn lại 500.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.

Trong quá trình giải quyết vụ án ông Đinh Văn A và bà Lê Thị H đã được Tòa án Thông báo thụ lý giải quyết vụ án và được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa hôm nay chị T vẫn bảo lưu quan điểm yêu cầu vợ chồng ông Đinh Văn A và bà Lê Thị H thanh toán số tiền 500.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Kiều T khởi kiện ông Đinh Văn A và bà Lê Thị H về tranh chấp tiền vay nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông A, bà H cùng cư trú tại ấp Kinh Đào T, xã Đất M, huyện Ngọc H, tỉnh Cà Mau nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ngọc H, tỉnh Cà Mau.

[2] Ông Đinh Văn A và bà Lê Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tuy nhiên ông A, bà H vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông A, bà H tại phiên tòa.

[3] Về nội dung: Từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2018 việc chị T có cho ông A, bà H vay tiền là thực tế có xảy ra. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay thể hiện việc hai bên có thực hiện các giao dịch liên quan đến việc chị T cho vợ chồng ông A, bà H vay số tiền 516.000.000 đồng. Chị Nguyễn Kiều T cho rằng do tin tưởng và trước đây làm ăn nhiều lần với nhau nên khi ông A, bà H có nhu cầu sử dụng đến hỏi chị vay tiền thì chị đồng ý cho vay 516.000.000 đồng. Tuy nhiên qua các tài liệu chứng cứ khác mà nguyên đơn cung cấp cho Tòa án như tin nhắn, ghi âm, ghi hình thì đều có nội dung ông A, bà H thừa nhận có vay tiền và hiện nay còn nợ chị số tiền 500.000.000 đồng.

Tại phiên tòa ngày hôm nay chị Nguyễn Kiều T có mặt vẫn bảo lưu quan điểm yêu cầu ông A, bà H có nghĩa vụ thanh toán cho chị số tiền 500.000.000 đồng. Hội đồng xét xử nhận định: Hiện nay ông Đinh Văn A và bà Lê Thị H là vợ chồng, mặc khác ông A, bà H đã được thông báo về việc thụ lý vụ án và đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông A, bà H vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản hồi về yêu cầu trả nợ của chị T. Do đã có làm ăn với nhau nhiều lần và tin tưởng nhau nên khi ông A, bà H đến vay tiền hai bên không làm biên nhận, giấy tờ. Xét thấy thực tế ông A, bà H với chị T đã nhiều lần giao dịch với nhau liên quan đến tiền bạc, Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển cũng đã nhiều lần giải quyết. Mặc khác nguyên đơn chị T cung cấp cho Tòa án nhũng chứng cứ khác như tin nhắn, ghi âm, ghi hình thì đều có nội dung ông A, bà H thừa nhận có vay tiền và hiện nay còn nợ chị số tiền 500.000.000 đồng.

Từ những chứng cứ, nhận định nêu trên xét thấy có đủ cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Kiều T. Buộc ông Đinh Văn A và bà Lê Thị H có nghĩa vụ thanh toán cho chị Nguyễn Kiều T số tiền nợ là 500.000.000 đồng.

Kể từ khi chị Nguyễn Kiều T có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông A, bà H chậm trả khoản tiền trên cho chị T thì ông A, bà H còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

[4] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì ông A, bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 20.000.000 + (4 x (100.000.000 x 4 %) ) = 24.000.000 đồng. Chị Nguyễn Kiều T đã dự nộp số tiền 12.500.000 đồng theo biên lai thu số 0006441 ngày 21/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N chị T được nhận lại.

[5] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng ông Đinh Văn A và bà Lê Thị H tại phiên tòa.

Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 463; Điều 465; Điều 466; Điều 469; khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Kiều T. Buộc ông Đinh Văn A và bà Lê Thị H có nghĩa vụ thanh toán cho chị Nguyễn Kiều T số tiền vay là 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng).

Kể từ khi chị Nguyễn Kiều T có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông A, bà H chậm trả khoản tiền trên cho chị T thì ông A, bà H còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch ông Đinh Văn A và bà Lê Thị H phải nộp 24.000.000 đồng.

Chị Nguyễn Kiều T đã dự nộp số tiền 12.500.000 đồng theo biên lai thu số 000 6441 ngày 21/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N chị T được nhận lại.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

416
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp vay tài sản số 17/2021/DS-ST

Số hiệu:17/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hiển - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về