Bản án về tranh chấp tuyên bố không phải quan hệ vợ chồng số 07/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 07/2024/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ TRANH CHẤP TUYÊN BỐ KHÔNG PHẢI QUAN HỆ VỢ CHỒNG

Ngày 02 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 1240/2023/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2023, về việc “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố không phải quan hệ vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Hoàng Ngọc Q, sinh năm 1994. HKTT và trú tại: Số 55, ấp QĐ, xã ĐH, huyện TB, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Đỗ Tú T, sinh năm 1991. HKTT: Xã TA, huyện VT, Thành phố Cần Thơ. Địa chỉ liên hệ: ấp 1, xã ST, huyện TB, tỉnh Đồng Nai.

(Chị Bùi Hoàng Ngọc Q, anh Đỗ Tú T đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/12/2023 và trong quá trình chuẩn bị xét xử nguyên đơn chị Bùi Hoàng Ngọc Q trình bày:

Chị Bùi Hoàng Ngọc Q và anh Đỗ Tú T có tình cảm yêu đương nam nữ, sau đó chung sống với nhau như vợ chồng được khoảng 08 tháng (từ tháng 3/2022 đến cuối tháng 9/2022) nhưng không đăng ký kết hôn. Chị Bùi Hoàng Ngọc Q và anh Đỗ Tú T không hợp nhau hay bất đồng quan điểm sống và sinh hoạt gia đình nên không tìm được tiếng nói chung. Do đó, chị Bùi Hoàng Ngọc Q và anh Đỗ Tú T không còn chung sống với nhau nữa. Chị Q yêu cầu Tòa án tuyên bố chị Bùi Hoàng Ngọc Q và anh Đỗ Tú T không phải là vợ chồng để chị Q và anh T có cơ hội kết hôn, xây dựng gia đình với người khác.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống với nhau như vợ chồng chị Q và anh T có 01 con chung là cháu Đỗ Minh T1, sinh ngày 30/6/2022. Khi giải quyết ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Đỗ Minh T1; tạm thời, chị Q không yêu cầu anh Đỗ Tú T phải cấp dưỡng tiền cho chị Q nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không có.

- Về nợ chung: Không có.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 16/01/2024 bị đơn anh Đỗ Tú T trình bày ý kiến:

Anh T và chị Q có tình cảm nam nữ, chung sống với nhau như vợ chồng được khoảng 08 tháng (từ tháng 3/2022 đến cuối tháng 9/2022) nhưng không đăng ký kết hôn. Vì không hợp nhau, hay xảy ra cãi vã, mâu thuẫn phát sinh chủ yếu từ hai bên gia đình nên từ cuối tháng 9/2022 thì anh chị không còn sống chung với nhau nữa mà mỗi người có một cuộc sống riêng.

Trong quá trình chung sống với nhau như vợ chồng anh T và chị Q có 01 con chung là cháu Đỗ Minh T1, sinh ngày 30/6/2022. Khi yêu cầu tuyên bố anh chị không phải là vợ chồng thì anh T đồng ý giao cho chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Đỗ Minh T1; anh tự nguyện cấp dưỡng tiền cho chị Q nuôi con chung với mức cấp dưỡng mỗi tháng là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ tố tụng;

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên bố chị Bùi Ngọc Hoàng Q không phải quan hệ vợ chồng với anh Đỗ Tú T. Về con chung: Giao cho chị Bùi Ngọc Hoàng Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Đỗ Minh T1, sinh ngày 30/6/2022; anh Đỗ Tú T tự nguyện cấp dưỡng tiền cho chị Q nuôi con chung với mức cấp dưỡng mỗi tháng là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Về tài sản chung, nợ chung chị Q và anh T khai không có và không có tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết. Buộc nguyên đơn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng dân sự:

[1.1] Chị Bùi Ngọc Hoàng Q khởi kiện yêu cầu tuyên bố không phải quan hệ vợ chồng với anh Đỗ Tú T hiện đang cư trú tại: Ấp 1, xã ST, huyện TB, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố không phải quan hệ vợ chồng” theo quy định tại khoản 7 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

[1.2] Chị Bùi Ngọc Hoàng Q và anh Đỗ Tú T có đơn đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

2.1. Về yêu cầu tuyên bố không phải quan hệ vợ chồng:

Chị Bùi Ngọc Hoàng Q và anh Đỗ Tú T đều thừa nhận anh, chị chung sống với nhau như vợ chồng được khoảng 08 tháng (từ tháng 3/2022 đến cuối tháng 9/2022) nhưng không đăng ký kết hôn. Căn cứ khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ giữa chị Bùi Ngọc Hoàng Q và anh Đỗ Tú T không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng.

2.2. Về con chung:

Chị Bùi Ngọc Hoàng Q và anh Đỗ Tú T thừa nhận anh, chị có 01 con chung là Đỗ Minh T1, sinh ngày 30/6/2022. Chị Bùi Ngọc Hoàng Q yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Đỗ Minh T1, sinh ngày 30/6/2022. Anh Đỗ Tú T đồng ý giao cho chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Đỗ Minh T1; anh T tự nguyện cấp dưỡng tiền cho chị Q nuôi con chung với mức cấp dưỡng mỗi tháng là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Việc tự nguyện cấp dưỡng của anh T không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Do đó, giao cho chị Bùi Ngọc Hoàng Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Đỗ Minh T1, sinh ngày 30/6/2022. Anh Đỗ Tú T có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền cho chị Bùi Ngọc Hoàng Q nuôi con chung với mức cấp dưỡng mỗi tháng là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) kể từ ngày 02/02/2024 đến khi con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động là phù hợp với quy định của pháp luật.

2.3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Bùi Ngọc Hoàng Q và anh Đỗ Tú T trình bày không có và không có tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chị Bùi Ngọc Hoàng Q phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, anh Đỗ Tú T phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con.

[4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai thì thấy phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 14, Điều 15, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Ngọc Hoàng Q:

1. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố chị Bùi Ngọc Hoàng Q và anh Đỗ Tú T không phải quan hệ vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cho chị Bùi Ngọc Hoàng Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Đỗ Minh T1, sinh ngày 30/6/2022.

Không ai được cản trở quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của anh Đỗ Tú T.

Anh Đỗ Tú T có nghĩa vụ cấp dưỡng tiền cho chị Bùi Ngọc Hoàng Q nuôi con chung với mức cấp dưỡng mỗi tháng là 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) kể từ ngày 02/02/2024 đến khi con chung đủ 18 tuổi và có khả năng lao động là phù hợp với quy định của pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Vì quyền lợi của con, khi điều kiện thay đổi các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Bùi Ngọc Hoàng Q phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0006346 ngày 19/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom. Anh Đỗ Tú T phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc cấp dưỡng nuôi con. Chị Bùi Ngọc Hoàng Q đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp tuyên bố không phải quan hệ vợ chồng số 07/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:02/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về