Bản án về tranh chấp tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu số 3344/2023/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 3344/2023/LĐ-ST NGÀY 29/08/2023 VỀ TRANH CHẤP TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG VÔ HIỆU

Ngày 29 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 13/2023/TLST-LĐ ngày 01 tháng 3 năm 2023, về việc “Tranh chấp tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4270/2023/QĐXXST-LĐ ngày 19 tháng 7 năm 2023 và quyết định hoãn phiên tòa số 4270/2023/QĐH-ST ngày 09 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Hồ Thị V, sinh năm 1987 Thường trú: Thôn A, xã T, huyện A, tỉnh Nghệ An.

Địa chỉ liên lạc: 5 Khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương (có đơn yêu cầu vắng mặt).

Bị đơn: Công ty TNHH Y Trụ sở: Lô G, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đỗ Thái B, sinh năm 1976 Địa chỉ liên hệ: Lô G, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn yêu cầu vắng mặt).

(Theo giấy ủy quyền số 08.05/PR.Y.2023 ngày 08/5/2023) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị N, sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn G, xã T, huyện A, tỉnh Nghệ An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1986 Thường trú: Thôn A, xã T, huyện A, tỉnh Nghệ An.

Địa chỉ: 5 Khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương (có đơn yêu cầu vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 14/02/2023 và lời trình bày của đại diện nguyên đơn trong quá trình tham gia tố tụng:

Do có mối quan hệ thân thiết, cùng quê và cùng ở trọ với nhau nên tháng 03/2010 đến tháng 02/2012, bà Hồ Thị V có cho bà Trần Thị N mượn chứng minh nhân dân của bà Hồ Thị V mang số 18665800x do Công an tỉnh N cấp để ký hợp đồng lao động thời hạn 12 tháng với Công ty TNHH Y (gọi tắt là Công ty) và tham gia bảo hiểm xã hội với số sổ bảo hiểm xã hội là 7910216871 mang tên Hồ Thị V. Lý do bà Hồ Thị V cho mượn chứng minh nhân dân là do bà Trần Thị N chưa đủ 18 tuổi để có thể trực tiếp ký hợp đồng lao động. Công việc của bà N tại Công ty TNHH Y là công nhân. Bà Trần Thị N chỉ đi làm tại Công ty TNHH Y trong thời gian từ tháng 03/2010 và tháng 02/2012, sau đó bà N đã nghỉ việc. Hiện nay bà Hồ Thị V không cung cấp được hợp đồng lao động bà N đã mượn chứng minh nhân dân của bà để ký với Công ty TNHH Y do bà Trần Thị N đã làm thất lạc.

Tuy nhiên, trong thời gian từ tháng 03/2007 đến tháng 5/2019, bà Hồ Thị V đang đi làm tại Công ty TNHH H và tham gia bảo hiểm xã hội với số sổ bảo hiểm là 91070596xx, vị trí công nhân viên.

Ngày 06/02/2023, bà Hồ Thị V đã gửi đơn yêu cầu hòa giải tranh chấp lao động đến Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thành phố T. Tuy nhiên, quá thời hạn 05 ngày làm việc theo quy định của pháp luật nhưng Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thành phố T không tiến hành hòa giải.

Tại đơn khởi kiện, bà Hồ Thị V yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động giữa bà Trần Thị N và Công ty TNHH Y là vô hiệu do xác định bà Trần Thị N là người trực tiếp lao động. Tuy nhiên, thông tin ký hợp đồng lao động mang tên Hồ Thị V nên nay bà V xác định lại yêu cầu khởi kiện cho chính xác là yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng lao động giữa bà Hồ Thị V và Công ty TNHH Y là vô hiệu do không đúng người lao động tham gia ký kết hợp đồng lao động.

Ngoài ra, bà Hồ Thị V không có yêu cầu gì khác, không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng lao động vô hiệu.

Về án phí lao động sơ thẩm, bà Hồ Thị Văn tự n nộp.

* Bị đơn Công ty TNHH Y có người đại diện theo ủy quyền là ông Đỗ Thái B trình bày:

Tháng 03/2010, Công ty TNHH Y có ký hợp đồng lao động có thời hạn 12 tháng với bà Hồ Thị V, số chứng minh nhân dân 18665800x do Công an tỉnh N cấp. Việc bà Trần Thị N mượn chứng minh nhân dân của bà Hồ Thị V để đi ký kết hợp đồng lao động Công ty không biết. Công ty đã tham gia bảo hiểm xã hội cho bà V với số sổ bảo hiểm xã hội là 7910216871. Bà Hồ Thị Văn C đi làm tại Công ty TNHH Y trong thời gian từ tháng 03/2010 và tháng 02/2012, sau đó bà V đã nghỉ việc. Hiện nay Công ty không cung cấp được hợp đồng lao động giữa bà Hồ Thị V và Công ty TNHH Y do đã lâu nên Công ty không có lưu trữ.

Nay bà Hồ Thị V khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng lao động giữa bà Hồ Thị V và Công ty TNHH Y là vô hiệu do không đúng người lao động tham gia ký kết hợp đồng lao động. Công ty đồng ý và không yêu cầu giải quyết hậu quả của việc tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu. Do ông B bận công không tham gia phiên tòa được việc nên xin vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị N có người đại diện theo ủy quyền là ông Phạm Văn T trình bày:

Tháng 03/2010 đến tháng 02/2012, bà Trần Thị N mượn chứng minh nhân dân của bà Hồ Thị V để đi làm tại Công ty TNHH Y và tham gia bảo hiểm xã hội mang tên Hồ Thị V. Trong khoảng thời gian này, thực tế bà V đang đi làm tại Công ty TNHH H và tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 03/2007 đến tháng 5/2019. Lý do bà N mượn chứng minh nhân dân của bà V là do bà N và V là người cùng quê, ở cùng xóm trọ và bà N chưa đủ 18 tuổi để giao kết hợp đồng lao động. Nay bà N đồng ý với yêu cầu của bà Hồ Thị V, đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng lao động giữa bà Hồ Thị V và Công ty TNHH Y là vô hiệu. Do ông Trọng b công việc không tham gia tố tụng được nên yêu cầu được vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bà Hồ Thị V khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu nên căn cứ khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn Công ty TNHH Y có trụ sở tại phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Bà Hồ Thị V, ông Đỗ Thái B và ông Phạm Văn T có đơn yêu cầu vắng mặt khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.

[3] Về thủ tục hòa giải trước khi khởi kiện: Ngày 06/02/2023, bà Hồ Thị V đã nộp đơn yêu cầu hòa giải đến phòng Lao động Thương binh và Xã hội thành phố T để yêu cầu hòa giải nhưng quá hạn 05 ngày làm việc vụ việc không được tiến hành hòa giải cơ sở nên căn cứ quy định tại khoản 2, khoản 7 Điều 188 Bộ luật lao động năm 2019 bà V có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về việc lựa chọn Bộ luật lao động để áp dụng giải quyết tranh chấp: Các bên tranh chấp hợp đồng lao động trong giai đoạn từ tháng 03/2010 đến tháng 02/2012 nên Bộ luật lao động được áp dụng đề giải quyết tranh chấp là Bộ luật lao động năm 1994 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007)

[5] Về thời hiệu khởi kiện: các bên đương sự không yêu cầu áp dụng về thời hiệu nên căn cứ quy định tại Điều 190 Bộ luật lao động năm 2019, Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án không áp dụng thời hiệu.

[6] Về hợp đồng lao động: Bà Hồ Thị V khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động được giao kết giữa bà Hồ Thị V do bà Trần Thị N là người trực tiếp lao động và Công ty TNHH Y là vô hiệu. Tuy nhiên, đương sự không cung cấp được hợp đồng lao động này do đã bị thất lạc. Tuy nhiên căn cứ vào lời trình bày của đương sự và căn cứ vào văn bản số 1144/BHXH - THU ngày 25/5/2023 của Bảo hiểm xã hội thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh xác định bà Hồ Thị V có tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian tháng 5/2010 đến tháng 02/2012 tại Công ty TNHH Y nên có căn cứ xác định giữa bà Hồ Thị V và Công ty TNHH Y có giao kết hợp đồng lao động, thời hạn hợp đồng từ tháng 5/2010 đến tháng 02/2012.

[7] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Căn cứ văn bản số 1144/BHXH - THU ngày 25/5/2023 của Bảo hiểm xã hội thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh xác định bà Hồ Thị V có tham gia bảo hiểm xã hội trong khoảng thời gian tháng 5/2010 đến tháng 02/2012 tại Công ty TNHH Y.

Căn cứ văn bản số 158/CV-BHXH ngày 27/6/2023 của Bảo hiểm xã hội thành phố D, tỉnh Bình Dương xác định trong thời gian từ tháng 3/2007 đến tháng 05/2019, bà Hồ Thị V có tham gia bảo hiểm xã hội với số sổ bảo hiểm là 91070596xx tại Công ty TNHH H.

Như vậy có căn cứ xác định trong khoảng thời gian từ tháng 5/2010 đến tháng 02/2012 bà Hồ Thị V cùng lúc tham gia bảo hiểm xã hội tại 02 doanh nghiệp là Công ty TNHH Y và Công ty TNHH H. Bị đơn xác định thời gian tháng 5/2010 đến tháng 02/2012 có giao kết hợp đồng lao động với người tên Hồ Thị V, số chứng minh nhân dân 18665800x do Công an tỉnh N cấp. Việc bà N mượn chứng minh nhân dân của bà Văn Công t không biết và Công ty đồng ý với yêu cầu khởi việc của bà V. Bà Hồ Thị V và bà Trần Thị N cùng thống nhất ý kiến trong khoảng thời gian tháng 5/2010 đến tháng 02/2012 bà Hồ Thị V đi làm tại Công ty TNHH H và bà Trần Thị N mượn chứng minh nhân dân của bà Hồ Thị V để giao kết hợp đồng và trực tiếp tham gia lao động tại Công ty TNHH Y nên có cơ sở xác định bà Hồ Thị V không trực tiếp tham gia lao động tại Công ty TNHH Y. Do đó, việc bà Trần Thị N ký hợp đồng lao động với tại Công ty TNHH Y nhưng với tên bà Hồ Thị V là vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 30 Bộ luật lao động năm 1994 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007) nên có cơ sở xác định hợp đồng lao động giữa bà Hồ Thị V và Công ty TNHH Y là không có hiệu lực. Do đó, nay bà Hồ Thị V yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng lao động giữa bà Hồ Thị V và Công ty TNHH Y trong khoảng thời gian tháng 5/2010 đến tháng 02/2012 là vô hiệu do không đúng người lao động tham gia ký kết hợp đồng lao động, người lao động trực tiếp tham gia lao động là bà Trần Thị N trong khi thông tin ký hợp đồng lao động mang tên bà Hồ Thị V là có cơ sở nên được chấp nhận.

Về hậu quả của hợp đồng lao động vô hiệu, bà Hồ Thị V không yêu cầu nên không giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiềm sát nhân dân thành phố Thủ Đức tham gia phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí lao động sơ thẩm: Bà Hồ Thị Văn tự n chịu án phí lao động sơ thẩm 300.000 đồng nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 5; khoản 1 Điều 32; điểm c khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 184; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 30 Bộ luật Lao động năm 1994 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002, năm 2006, năm 2007);

- Căn cứ khoản 2, khoản 7 Điều 188; Điều 190 Bộ luật Lao động năm 2019;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014;

- Căn cứ Luật Phí và Lệ phí năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị V:

- Tuyên bố hợp đồng lao động giữa bà Hồ Thị V và Công ty TNHH Y trong khoảng thời gian tháng 5/2010 đến tháng 02/2012 là vô hiệu do không đúng người lao động tham gia ký kết hợp đồng lao động, người lao động trực tiếp tham gia lao động là bà Trần Thị N trong khi thông tin ký hợp đồng lao động mang tên Hồ Thị V.

- Về hậu quả của hợp đồng lao động vô hiệu: bà Hồ Thị V không yêu cầu nên không giải quyết.

2/ Án phí lao động sơ thẩm: Bà Hồ Thị Văn tự n chịu án phí lao động sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Hồ Thị V đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2022/0008239 ngày 27/02/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức. Bà Hồ Thị V đã nộp đủ án phí lao động sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu số 3344/2023/LĐ-ST

Số hiệu:3344/2023/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành:29/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về