Bản án về tranh chấp trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 25/2023/LĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 25/2023/LĐ-PT NGÀY 28/12/2023 VỀ TRANH CHẤP TRƯỜNG HỢP BỊ ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐNG

Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 25/2023/TLPT-LĐ ngày 22/11/2023 về việc “tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.

Do Bản án lao động sơ thẩm số 05/2023/LĐ-ST ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo, kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 25/2023/QĐ-PT ngày 18/12/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1988. Hộ khẩu thường trú: số 876/35/70 Cách mạng tháng T, Phường E, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ liên lạc: đường G, khu phố F, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn:

1. Bà Võ Thị Ngân H, sinh năm 1996; hộ khẩu thường trú: khu phố E, thị trấn P, huyện P, tỉnh Bình Dương. Bà H có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1985; hộ khẩu thường trú: xã L, huyện B, tỉnh Bình Dương. Bà D vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Cùng địa chỉ liên hệ: số A, đường số A, khu phố B, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương (theo văn bản ủy quyền ngày 11/7/2023).

- Bị đơn: Công ty TNHH C1. Địa chỉ: Lô C-8D-CN, khu công nghiệp M, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn:

1. Ông Võ Duy T, sinh năm 1995; địa chỉ: số C H, Phường D, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông T có mặt.

2. Bà Hồ Thị T1, sinh năm 1988; địa chỉ: Công ty TNHH C1, Lô C-8D-CN Khu công nghiệp M, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Bà T1 có mặt.

(Theo văn bản ủy quyền ngày 15/12/2023).

3. Ông Li Tong C, sinh năm 1979; địa chỉ: Công ty TNHH C1, Lô C-8D-CN, khu công nghiệp M, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương (theo văn bản ủy quyền ngày 28/12/2023). Ông L có mặt.

Người phiên dịch tiếng Trung phổ thông của ông L: bà Lê Thị Kim T2, sinh năm 1981; địa chỉ: khu phố H, xã C, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Bà T2 có mặt.

- Người kháng cáo: bị đơn Công ty TNHH C1.

- Người kháng nghị: Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn khởi kiện đề ngày 11/4/2023, lời trình bày của người đại diện hợp pháp của nguyên đơn bà Võ Thị Ngăn H và bà Nguyễn Thị Ngọc D trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa:

Ngày 13/3/2022, bà N và Công ty TNHH C2 - Aiko (gọi tắt là Công ty C2 hoặc Công ty) có ký Hợp đồng lao động số AK0153-HD1N ngày 13/3/2022. Thời hạn: Từ ngày 13/3/2022 đến ngày 13/3/2023. Vị trí làm việc: Nhân viên quản lý kho.

Mức lương theo hợp đồng lao động gồm: lương cơ bản là 6.600.000 đồng, trợ cấp chức vụ là 3.300.000 đồng, trợ cấp nhà ở là 1.100.000 đồng. Tổng cộng: 11.000.000 đồng. Tiền thưởng cuối năm căn cứ vào khả năng tài chính của Công ty. Sau khi trừ các khoản bảo hiểm xã hội, bà N thực lĩnh số tiền khoảng hơn 10.600.000 đồng. Tiền lương thực lĩnh chênh lệch mỗi tháng vài trăm nghìn đồng là do tiền chuyên cần và tiền ăn mỗi tháng khác nhau. Riêng tháng 8/2022, bà N nhận tiền lương chỉ 1.880.000 đồng do bà N phải trị bệnh tại Bệnh viện T3.

Công ty C2 đã đóng bảo hiểm xã hội từ ngày 08/02/2022 cho đến hết tháng 9/2022. Mức lương đóng bảo hiểm xã hội là 6.600.000 đồng.

Ngày 05/8/2022, do phải đến Bệnh viện T3 để mổ bóc nhân xơ tử cung nên bà N đã xin Công ty C2 nghỉ việc từ ngày 05/8-10/8/2022. Sau khi mổ, Bệnh viện chỉ định bà N nghỉ để hồi phục sức khỏe và tái khám từ ngày 11/8/2022 đến ngày 30/8/2022. Bệnh viện hẹn bà N ngày tái khám là 31/8/2022. Ngày 01/9/2022, bà N xin nghỉ phép năm. Các thời gian nghỉ nêu trên, bà N có xin Công ty và được Công ty đồng ý.

Ngày 03/9/2022, bà N đến Công ty C2 làm việc bình thường. Ngày 13/10/2022, bà N nhận được Quyết định nghỉ việc số AK0153-22QĐNV mà không được Công ty C2 thông báo trước. Quyết định nghỉ việc căn cứ vào đơn xin nghỉ việc của bà N và với lý do cắt giảm nhân sự nhưng thực tế bà N không làm đơn xin nghỉ việc. Khi nhận quyết định trên, bà N không đồng ý. Công ty C2 vẫn trả lương cho bà N trong những ngày bà N làm việc trong tháng 10.

Công ty C2 cho rằng đã điều động bà N sang bộ phận QC (bộ phận kiểm kê hàng hóa) theo Thông báo về việc điều động nhân sự số 05022022 ngày 10/9/2022 là không đúng, bà N không nhận được thông báo này, cũng không có việc điều động này. Công ty cho rằng phát hiện bà N không làm việc từ ngày 14/10/2022 khi không thấy bà N ký tên vào danh sách nhận quà 20/10 là không đúng. Bà N thực tế đã bị Công ty cho nghỉ việc từ ngày 13/10/2022.

Bà N không nhận được Quyết định số AK0153-22QĐNV ngày 13/10/2022 với lý do tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục.

Quá trình giải quyết vụ án, Công ty C2 có cung cấp Biên bản xử lý vi phạm kỷ luật lao động ngày 21/10/2022 và Công ty T4 có tổ chức cuộc họp kỷ luật đối với bà N, bà N không biết có việc này do bà không được Công ty thông báo tham gia cuộc họp.

Sau khi nghỉ việc tại Công ty C2, bà N không làm việc tại Công ty khác cho đến nay.

Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn xác định lại mức lương làm căn cứ buộc Công ty C2 trả và bồi thường là 9.900.000 đồng.

Do Công ty C2 đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật nên bà N khởi kiện yêu cầu Công ty phải trả và bồi thường cho bà N những khoản tiền sau:

- Tiền lương những ngày bà N không được làm việc, từ ngày 13/10/2022 đến ngày 13/3/2023 là: 05 tháng x 9.900.000 đồng = 49.500.000 đồng.

- Tiền lương do vi phạm thời hạn báo trước: 30 ngày x 9.900.000 đồng = 9.900.000 đồng.

- Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp từ ngày 13/10/2022 đến ngày 13/3/2023: 21,5% x 05 tháng x 6.600.000 đồng = 7.095.000 đồng.

- Bồi thường hai tháng tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật: 02 tháng x 9.900.000 đồng = 19.800.000 đồng.

Đồng thời, bà N rút lại yêu cầu phải nhận bà N trở lại làm việc, nếu Công ty C2 không nhận bà N trở lại làm việc thì phải bồi thường thêm cho bà N ít nhất 02 tháng tiền lương là: 02 tháng x 11.000.000 đồng = 22.000.000 đồng.

* Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị đơn bà Võ Thị Kim N1 trình bày:

Ngày 08/02/2022, bà N và Công ty C2 có ký Hợp đồng lao động số HD1N-AK0131 để bà N làm việc tại Công ty với vị trí là nhân viên. Thời hạn là 01 năm (từ ngày 08/02/2022 đến ngày 08/02/2023). Sau khi ký xong hợp đồng lao động, Công ty phân công bằng lời nói cho bà N làm việc tại bộ phận kho. Sau đó, Công ty C2 làm thất lạc Hợp đồng lao động ngày 08/02/2022 nên Công ty và bà N đã ký lại Hợp đồng lao động số AK0153-HD1N ngày 13/3/2022 với cùng nội dung như hợp đồng trước, chỉ khác thời hạn của hợp đồng là từ ngày 13/3/2022 đến ngày 13/3/2023.

Mức lương theo hợp đồng lao động gồm: lương cơ bản là 6.600.000 đồng, trợ cấp chức vụ là 3.300.000 đồng, trợ cấp nhà ở là 1.100.000 đồng. Tổng cộng: 11.000.000 đồng. Tiền thưởng cuối năm căn cứ vào khả năng tài chính của Công ty.

Công ty đóng bảo hiểm xã hội cho bà N từ ngày 08/02/2022 cho đến hết tháng 9/2022. Mức lương đóng bảo hiểm xã hội là 6.600.000 đồng.

Vì lý do cá nhân nên bà N xin phép Công ty nghỉ phép các ngày sau: từ ngày 05/8/2022 đến ngày 12/8/2022, từ ngày 13/8/2022 đến ngày 31/8/2022, ngày 01/9/2022 và ngày 06/10/2022. Tháng 8/2022, bà N nghỉ hơn 14 ngày (theo quy định của luật bảo hiểm xã hội thì người lao động nghỉ quá 14 ngày thì sẽ không được Công ty đóng bảo hiểm xã hội) nhưng vì tính nhân văn, Công ty vẫn đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ cho bà N do bà N đang bị bệnh, cần sử dụng thẻ bảo hiểm y tế.

Ngày 10/9/2022, bộ phận QC (bộ phận kiểm kê hàng hóa) thiếu người do có một người làm trong bộ phận này nghỉ việc nên Công ty C2 tạm thời điều động bà N sang bộ phận này. Thời điểm đó, Công ty vẫn hoạt động bình thường. Tại phiên tòa, bà N1 xác định nhân viên tại bộ phận QC chính thức nghỉ việc vào ngày 10/9/2022.

Công ty đã ra Thông báo về việc điều động nhân sự số 05022022/TB-HCNS ngày 10/9/2022 và ông Li Tong C - Giám đốc Công ty có thông báo bằng lời nói cho bà N biết. Công ty có lập biên bản giao nhận Thông báo số 05022022/TB-HCNS ngày 10/9/2022 cho bà N nhưng Công ty đã làm thất lạc biên bản giao nhận nên không có để cung cấp cho Tòa án. Khi biết vậy, bà N không đồng ý mà không nêu lý do.

Sau khi nhận thông báo điều động, bà N vẫn kiên quyết làm việc ở bộ phận kho mà không chấp hành theo điều động của Công ty C2. Bà N không chấp hành điều động của Công ty, Công ty không lập văn bản về vấn đề này. Việc bà N không chấp hành việc điều động này đã vi phạm khoản 2 Điều 4 Hợp đồng lao động ngày 13/3/2022 và vi phạm điều khoản luật lao động.

Ngày 14/10/2022, bà N tự ý nghỉ việc mà không thông báo cho Công ty C2 biết. Bà N nghỉ việc nhưng không làm đơn nghỉ việc. Đến ngày 20/10/2022, Công ty phát hiện bà N nghỉ việc do không thấy bà N ký tên vào danh sách nhận quà 20/10. Sau đó, Công ty kiểm tra bảng chấm công thì chỉ thấy bà N làm việc đến ngày 13/10/2022. Khi biết vậy, Công ty không lập văn bản ghi nhận vấn đề bà N tự ý nghỉ việc.

Ngày 21/10/2022, Công ty T5 cuộc họp xử lý kỷ luật bà N, có sự tham gia của đại diện ban chấp hành công đoàn trong Công ty là bà Hồ Thị T1. Nội dung xử lý kỷ luật là bà N tự ý bỏ việc từ ngày 14/10/2022 đến ngày 19/10/2022. Cuộc họp này, bà N không có mặt vì bà N đã nghỉ việc nên Công ty không mời bà N tham gia. Đồng thời, tại cuộc họp này, Công ty C2 đã lập Biên bản xử lý vi phạm kỷ luật lao động ngày 21/10/2022, trong đó, ghi lỗi tự ý nghỉ 05 ngày làm việc mà không có lý do chính đáng của bà N. Do bà N đã tự ý nghỉ việc nên sau cuộc họp, Công ty không thông báo cho bà N biết.

Sau ngày 20/10/2022, bà N đến Công ty C2 nhận sổ bảo hiểm xã hội thì Công ty mới ban hành Quyết định nghỉ việc số AK0153-22QĐNV đề ngày 13/10/2022 và giao quyết định này cùng sổ bảo hiểm cho bà N. Sau khi nhận quyết định nghỉ việc, bà N không có ý kiến gì. Quyết định nghỉ việc thể hiện lý do là cắt giảm nhân sự và căn cứ vào đơn nghỉ việc nhưng thực tế không có việc này. Do biểu mẫu quyết định nghỉ việc là ban hành chung trong Công ty. Đồng thời, việc ghi lý do như trên và Công ty ban hành quyết định nghỉ việc lùi lại ngày 13/10/2022 để đảm bảo cho bà N được hưởng các chế độ theo quy định, có hồ sơ sạch để xin việc ở Công ty khác.

Sau khi Công ty ban hành quyết định nghỉ việc một ngày thì Công ty ban hành tiếp một quyết định nghỉ việc cùng số, ký hiệu, cùng ngày tháng năm, hình thức, nội dung với quyết định trước nhưng lý do cho bà N nghỉ việc là bà N tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên. Quyết định này chỉ lưu ở Công ty, không giao cho bà N.

Nay, đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà N, Công ty C2 không đồng ý vì bà N tự ý nghỉ việc, vi phạm luật lao động và hợp đồng lao động. Công ty hoàn toàn không có lỗi trong việc này.

Tại Bản án lao động sơ thẩm số 05/2023/LĐ-ST ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích N đối với bị đơn Công ty C2.

- Xác định Công ty C2 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với bà Nguyễn Thị Bích N.

- Buộc Công ty C2 có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Bích N số tiền 79.200.000 đồng (trong đó, tiền lương trong những ngày không được làm việc là 49.500.000 đồng, tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước là 9.900.000 đồng, hai tháng tiền lương theo hợp đồng lao động là 19.800.000 đồng).

- Công ty C2 và bà N cùng có trách nhiệm liên hệ cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Dương để đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trên cơ sở sổ bảo hiểm xã hội của bà N và quy định của cơ quan bảo hiểm xã hội. Thời gian đóng tính từ tháng 10/2022 đến hết tháng 3/2023. Mức lương để đóng bảo hiểm là 6.600.000 đồng. Việc đóng bảo hiểm phải thực hiện ngay sau khi Bản án có hiệu lực thi hành.

2. Đình chỉ đối với yêu cầu phải nhận bà N trở lại làm việc, nếu Công ty C2 không nhận bà N trở lại làm việc thì phải bồi thường thêm cho bà N ít nhất hai tháng tiền lương làm việc: 02 tháng x 11.000.000 đồng = 22.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, trách nhiệm chậm thi hành án, quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 25/9/2023, bị đơn Công ty C2 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngày 09/10/2023, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương có Quyết định số 29/QĐ-VKS-LĐ kháng nghị một phần bản án sơ thẩm về việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn thanh toán số tiền bảo hiểm xã hội 7.095.000 đồng, nhưng tuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không đúng quy định và Tòa án cấp sơ thẩm tính án phí sơ thẩm với mức 5% cho bị đơn là không đúng quy định, đề nghị sửa một phần bản án sơ thẩm về án phí.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người đại diện hợp pháp của bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu ý kiến: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án: Bị đơn kháng cáo nhưng không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp. Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là có căn cứ; đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương; sửa bản án sơ thẩm theo hướng kháng nghị của Viện trưởng.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ý kiến trình bày của các bên đương sự và quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc giải quyết vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án “Tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”, bị đơn có trụ sở tại thị xã B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Xét đơn kháng cáo của bị đơn Công ty C2 được thực hiện trong thời hạn luật định, bị đơn đã nộp tạm ứng án phí nên việc kháng cáo là hợp lệ.

[1.3] Về phạm vi kháng cáo: bị đơn kháng cáo bản án sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn về việc tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương cũng chỉ kháng nghị một phần bản án sơ thẩm nên quyết định của bản án sơ thẩm: “Đình chỉ đối với yêu cầu phải nhận bà N trở lại làm việc, nếu Công ty TNHH C2 - Aiko không nhận bà N trở lại làm việc thì phải bồi thường thêm cho bà N ít nhất hai tháng tiền lương làm việc: 02 tháng x 11.000.000 đồng = 22.000.000 đồng” không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị theo quy định tại khoản 2 Điều 282 Bộ luật Tố tụng dân sự. Theo quy định tại Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ lao động: bà N và Công ty C2 có ký Hợp đồng lao động số AK0153-HD1N ngày 13/3/2022. Thời hạn 01 năm: từ ngày 13/3/2022 đến ngày 13/3/2023. Vị trí làm việc: Nhân viên quản lý kho. Mức lương theo hợp đồng lao động gồm: lương cơ bản là 6.600.000 đồng, trợ cấp chức vụ là 3.300.000 đồng, trợ cấp nhà ở là 1.100.000 đồng. Tổng cộng: 11.000.000 đồng. Mức lương Công ty đóng bảo hiểm xã hội cho bà N là 6.600.000 đồng/tháng.

[2.2] Về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động: các bên trình bày thống nhất ngày 13/10/2022, Công ty ban hành Quyết định nghỉ việc số AK0153-22QĐNV. Quyết định nghỉ việc số AK0153-22QĐNV đã được giao cho bà N vào ngày 13/10/2022 và từ ngày 14/10/2022 thì bà N nghỉ việc tại Công ty.

Xét Quyết định nghỉ việc số AK0153-22QĐNV ngày 13/10/2022 cho bà N nghỉ việc với lý do có đơn xin nghỉ việc của bà N là không có căn cứ vì bà N không thừa nhận có đơn xin nghỉ việc và Công ty không cung cấp được đơn xin nghỉ việc của bà N. Bị đơn cung cấp biên bản xử lý kỷ luật lao động ngày 21/10/2022 nhưng việc xử lý kỷ luật lại được thực hiện sau khi bà N đã bị chấm dứt hợp đồng lao động (ngày 13/10/2022); bà N không được mời tham gia phiên họp xử lý kỷ luật là vi phạm về trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật lao động sa thải theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Lao động năm 2019.

Ngoài ra, Công ty còn cung cấp Quyết định nghỉ việc có cùng số hiệu AK0153-22QĐNV và cùng ngày 13/10/2022 nhưng với nội dung cho bà N nghỉ việc với lý do bà N tự ý bỏ việc từ 05 ngày trở lên. Tuy nhiên, quyết định này chưa được Công ty giao cho bà N; ngày ban hành Quyết định trước khi công ty T5 cuộc họp xử lý kỷ luật là mâu thuẫn; lý do nghỉ việc là do bà N tự ý bỏ việc 05 ngày trở lên cũng hoàn toàn không có căn cứ.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định Công ty C2 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là có căn cứ.

[2.3] Xét các khoản bồi thường: theo quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao động thì Công ty có nghĩa vụ bồi thường cho bà N trên mức lương 9.900.000 đồng/ tháng trong thời gian bà N không được làm việc (từ ngày 13/10/2022 đến ngày 13/3/2023), thời gian báo trước 30 ngày và bồi thường thêm 02 tháng tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N, buộc Công ty phải bồi thường các khoản do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động tổng cộng: 79.200.000 đồng là đúng.

[2.4] Về trách nhiệm đóng các khoản bảo hiểm xã hội: Theo quy định tại khoản 4 Điều 3, khoản 2 Điều 21 và các Điều 85, 86 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 thì người lao động và người sử dụng lao động đều có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội. Người sử dụng lao động có trách nhiệm trích từ tiền lương của người lao động để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội. Theo quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao động năm 2019, trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng các khoản tiền bảo hiểm xã hội vào quỹ bảo hiểm xã hội cho người lao động trong những ngày không được làm việc. Như vậy, trong vụ án này bị đơn có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội và được quyền trích từ tiền bồi thường cho bà N để đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội phần trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội của bà N từ ngày 13/10/2022 đến ngày kết thúc hợp đồng lao động 13/3/2023. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thanh toán trực tiếp các khoản bảo hiểm xã hội phải đóng cho nguyên đơn là không phù hợp với quy định pháp luật. Trên thực tế, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc bị đơn truy đóng bảo hiểm xã hội cho nguyên đơn trong thời gian không được làm việc là phù hợp, nhưng khi tuyên án lại ghi chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không chính xác. Mặc dù sai sót này không nghiêm trọng, không ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và có thể rút kinh nghiệm, nhưng do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã có kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy phải chấp nhận kháng nghị và sửa án sơ thẩm về cách tuyên án.

[3] Về án phí lao động: theo Danh mục án phí, lệ phí Tòa án (ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016) thì án phí lao động sơ thẩm là 3%. Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải chịu án phí 3.960.000 đồng trên số tiền 79.200.000 đồng (mức 5%) án phí sơ thẩm là chưa phù hợp quy định nêu trên, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương kháng nghị về án phí là có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận và điều chỉnh lại cho phù hợp.

[4] Từ các phân tích nêu trên xét thấy, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn; có căn cứ chấp nhận Quyết định số 29/QĐ-VKS-LĐ ngày 09/10/2023 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về việc không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, đề nghị chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[5] Về án phí: Nguyên đơn được miễn án phí sơ thẩm. Bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận và không phải chịu án phí phúc thẩm do Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 148, khoản 2 Điều 282, Điều 293, khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Áp dụng các Điều 36, 41, 90 và 122 của Bộ luật Lao động năm 2019; khoản 4 Điều 3, khoản 2 Điều 21 và các Điều 85, 86 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014. Tuyên xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty TNHH C2; chấp nhận Quyết định kháng nghị số 29/QĐ-VKS-LĐ ngày 09/10/2023 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương; sửa một phần Bản án sơ thẩm số 05/2023/LĐ-ST ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương như sau:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích N đối với bị đơn Công ty TNHH C2 - Aiko về việc “tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”.

1.1. Xác định Công ty TNHH C2 - C2 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với bà Nguyễn Thị Bích N. Buộc Công ty TNHH C2 - Aiko phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Bích N các khoản sau:

+ Tiền lương trong những ngày không được làm việc 49.500.000 đồng;

+ 02 tháng tiền lương 19.800.000 đồng;

+ Tiền lương không báo trước 9.900.000 đồng Tổng cộng: 79.200.000 đồng.

1.2. Buộc Công ty TNHH C2 - Aiko có trách nhiệm đóng các khoản tiền bảo hiểm xã hội vào quỹ bảo hiểm xã hội cho bà Nguyễn Thị Bích N trong những ngày không được làm việc chưa được đóng bảo hiểm xã hội từ tháng 10/2022 đến ngày kết thúc hợp đồng lao động 13/3/2023 với mức lương 6.600.000 đồng/tháng. Bị đơn được quyền trích từ khoản tiền bồi thường cho nguyên đơn để thực hiện nghĩa vụ của người lao động.

1.3. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ, thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Phần nội dung “2. Đình chỉ đối với yêu cầu phải nhận bà N trở lại làm việc, nếu Công ty TNHH C2 - Aiko không nhận bà N trở lại làm việc thì phải bồi thường thềm cho bà N ít nhất hai tháng tiền lương làm việc: 02 tháng x 11.000.000 đồng = 22.000.000 đồng” của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Về án phí lao động sơ thẩm:

- Công ty TNHH C2 - Aiko phải chịu 2.376.000 đồng.

- Bà Nguyễn Thị Bích N được miễn nộp án phí lao động.

4. Về án phí phúc thẩm: Công ty TNHH C2 - Aiko được hoàn lại 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0012275 ngày 26/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 25/2023/LĐ-PT

Số hiệu:25/2023/LĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về