Bản án về tranh chấp trợ cấp thôi việc số 01/2022/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 01/2022/LĐ-ST NGÀY 09/02/2022 VỀ TRANH CHẤP TRỢ CẤP THÔI VIỆC

Trong ngày 09 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 3/2021/TLST- LĐ ngày 28/01/2021 về “Tranh chấp về trợ cấp thôi việc” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 183/2021/QĐXXST-LĐ ngày 09 tháng 12 năm 2021 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2022/QĐST-LĐ ngày 05 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Duy G, sinh năm 1968. (Vắng mặt)

Địa chỉ thường trú: khu phố C, phường H, DA, Bình Dương.

Địa chỉ tạm trú: khu phố T, phường Đ, TA, Bình Dương.

2. Bị đơn: Công ty Cổ phần C.

Địa chỉ đăng ký kinh doanh: đường T, KDC S, phường P, Quận G, Thành phố H.

Địa chỉ hoạt động: đường số H, KDC S, xã H, huyện C, Thành phố H.

Ngưi đại diện theo pháp luật của bị đơn: Ông Huỳnh Văn Chánh T, sinh năm 1959; Chỗ ở hiện tại: đường A, KDC H, xã H, huyện C, Thành phố H. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau:

Ông Nguyễn Duy G và Công ty Cổ phần C (gọi tắt là công ty) có ký hợp đồng lao động từ tháng 4/1995, sau đó hai bên ký tiếp Hợp đồng lao động ngày 21/7/2008, từ năm 2018 công ty không bố trí công việc cho ông G, ông đã nghỉ việc và được công ty đồng ý bằng Quyết định số 63/QĐ-CPTC ngày 03/9/2019, theo quyết định trên thì công ty chấm dứt hợp đồng lao động với ông Nguyễn Duy G kể từ ngày 30/9/2019, theo quyết định thì số tiền trợ cấp thôi việc cho ông G là 34.677.500 đồng. Sau khi hai bên chấm dứt hợp đồng lao động thì đến nay công ty không chi trả số tiền trợ cấp thôi việc nêu trên cho ông G. Do đó, nay ông G yêu cầu Tòa án buộc Công ty Cổ phần C phải trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật số tiền nợ trợ cấp thôi việc là 34.677.500 đồng.

2. Bị đơn: Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án và vắng mặt tại phiên tòa.

3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng, thời hạn giải quyết vụ án đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, nguyên đơn thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật, bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, còn bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thảo luận về những vấn đề cần giải quyết trong vụ án và nhận định như sau:

[1] Về pháp luật tố tụng dân sự:

[2] Ông Nguyễn Duy G khởi kiện tranh chấp về trợ cấp thôi việc đối với Công ty Cổ phần C; địa chỉ: đường T, KDC S, phường P, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Xét, quan hệ tranh chấp là tranh chấp về trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố H theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên toà nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về pháp luật nội dung:

[5] Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn chi trả trợ cấp thôi việc số tiền là 34.677.500 đồng, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[6] Công ty Cổ phần C và ông Nguyễn Duy G có ký hợp đồng lao động từ tháng 4/1995, sau đó hai bên ký tiếp Hợp đồng lao động số 649 ngày 21/7/2008, loại hợp đồng lao động không xác định thời hạn, chức danh cán bộ kỹ thuật, công việc giám sát thi công tại hiện trường. Sau đó, ông G đã xin nghỉ việc và Công ty Cổ phần C đã ra Quyết định số 63/QĐ-CPTC ngày 03/9/2019, theo quyết định trên thì chấm dứt hợp đồng lao động với ông Nguyễn Duy G kể từ ngày 30/9/2019, ông G có thời gian làm việc tại công ty từ ngày 04/4/1995 đến ngày 30/9/2019 (24 năm 06 tháng), thời gian trả trợ cấp thôi việc là 13 năm 09 tháng (từ tháng 4/1995 đến tháng 12/2008), số tiền trợ cấp thôi việc là 5.044.000 đồng x 13 năm 09 tháng x ½ = 34.677.500 đồng. Như vậy, hai bên thỏa thuận ký kết hợp đồng lao động là tự nguyện và không trái với quy định của pháp luật, việc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động của hai bên là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 36 của Bộ luật Lao động năm 2012, số tiền trợ cấp thôi việc của ông G được tính như trên là phù hợp với quy định tại Điều 48 của Bộ luật lao động năm 2012 và Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/ 2015 của Chính phủ. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và trình bày của nguyên đơn, có cơ sở xác định bị đơn chưa chi trả số tiền trợ cấp thôi việc nêu trên cho nguyên đơn.

[7] Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 47 của Bộ luật Lao động năm 2012 quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau: “2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày. 3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động.” [8] Theo quy định khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương”.

[9] Tại khoản 5 và khoản 6 Điều 14 Mục 3 của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính Phủ và khoản 8 Điều 1 của Nghị định số 148/2018/NĐ-CP ngày 24/10/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của chính phủ quy định về thời hạn thanh toán quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau: “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên. Trường hợp đặc biệt, thời hạn thanh toán có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, thuộc một trong các trường hợp sau: 1. Người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động; 2. Người sử dụng lao động hoặc người lao động gặp thiên tai, hỏa hoạn, địch họa hoặc dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; 3. Người sử dụng lao động thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc lý do kinh tế theo Điều 44 của Bộ luật lao động hoặc sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp, hợp tác xã, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản theo Điều 45 của Bộ luật lao động.” [10] Đối với bị đơn: Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ, nhưng bị đơn vắng mặt mà không có lý do; Bị đ ơn cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh và không gửi cho Tòa án văn bản phản đối yêu cầu của nguyên đơn. Căn cứ vào Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự thì bị đơn đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình, nên phải chịu hậu quả theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án.

[11] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật số tiền nợ trợ cấp thôi việc là 34.677.500 đồng.

[12] Ông G đã nhận lại sổ bảo hiểm xã hội được chốt ngày 25/11/2019 và ông không có yêu cầu gì khác, do đó Hội đồng xét xử không xét.

[13] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí đối với tranh chấp về lao động có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ v à o đ iểm b khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 2 và khoản 3 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Lao động năm 2012;

Căn cứ vào Luật phí và lệ phí Tòa án năm 2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Căn cứ vào Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Duy G:

Buộc Công ty Cổ phần C phải trả cho ông Nguyễn Duy G một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật số tiền nợ trợ cấp thôi việc là 34.677.500 (Ba mươi bốn triệu, sáu trăm bảy mươi bảy nghìn, năm trăm) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ Luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Công ty Cổ phần C phải chịu án phí đối với tranh chấp về lao động là 1.040.325 (Một triệu, không trăm bốn mươi nghìn, ba trăm hai mươi lăm) đồng.

3. Về quyền kháng cáo: ông Nguyễn Duy G, Công ty Cổ phần C có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

110
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp trợ cấp thôi việc số 01/2022/LĐ-ST

Số hiệu:01/2022/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 09/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về