Bản án về tranh chấp tiền lương theo hợp đồng lao động số 02/2024/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 02/2024/LĐ-ST NGÀY 22/02/2024 VỀ TRANH CHẤP TIỀN LƯƠNG THEO HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG

Ngày 22 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L xét xử công khai vụ án thụ lý số 18/2023/TLST-LĐ ngày 15 tháng 11 năm 2023 về “Tranh chấp tiền lương theo hợp đồng lao động và và tranh chấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2023/QĐXXST-LĐ ngày 22 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1983 Địa chỉ: A Nguyễn Đình C, Phường B, thành phố T, tỉnh L. Người đại diện theo ủy quyền của bà N là:

1/ Ông Trần Văn T, sinh năm 1986;

Địa chỉ: Ấp H, xã M, huyện T, tỉnh L.

2/ Ông Nguyễn Tuấn D, sinh năm 1987;

Địa chỉ: số T Cao Văn L, Phường N, thành phố T, tỉnh L.

3/ Ông Võ Minh K, sinh năm 1997;

Địa chỉ: Ấp K, xã B, huyện BL, tỉnh L.

4/ Bà Huỳnh Thị Minh T, sinh năm 1995;

Địa chỉ: D Quốc lộ N, Khu M, thị trấn C, huyện C, tỉnh L. (Theo giấy ủy quyền ngày 14/9/2023).

- Bị đơn: Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L.

Địa chỉ: C Tỉnh lộ T, Khu phố B, Phường B, thành phố T, tỉnh L. Người đại diện theo pháp luật là ông Lê Cao M – Chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Văn Tr (theo văn bản ủy quyền ngày 20/12/2023).

Địa chỉ: số H Đỗ Thừa T, phường Q, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bảo hiểm xã hội tỉnh L.

Địa chỉ: số T Tuyến tránh thành phố T, Phường S, thành phố T, tỉnh L. Người đại diện theo pháp luật là ông Trần S – Giám đốc.

(Ông D có mặt; ông Tr vắng mặt không lý do, đại diện BHXH tỉnh L có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/10/2023 của bà Nguyễn Thị Tuyết N và lời trình bày của ông Nguyễn Tuấn D là người đại diện theo ủy quyền của bà N có trong hồ sơ có nội dung:

Ngày 03/8/2020, bà Nguyễn Thị Tuyết N và Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L ký kết hợp đồng lao động số 320/2020/HĐLĐ-BVSNLA không xác định thời hạn và tiến hành đăng ký hành nghề tại Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L theo chứng chỉ hành nghề số 0001955/LA-CCHN ngày 20/9/2013 do Sở y tế tỉnh L cấp. Căn cứ Hợp đồng lao động tổng lương của Nguyễn Thị Tuyết N là 11.687.500đ/tháng chưa bao gồm công tác phí và phí đào tạo. Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L phải thực hiện các nghĩa vụ về BHXH/BHYT/BHTN theo quy định của pháp luật. Sau nhiều tháng Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L không thanh toán lương và trả lương không đầy đủ như thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết nên bà N đã nộp đơn xin nghỉ việc.

Ngày 07/4/2023, bà N chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L. Căn cứ Quyết định bà N “được hưởng thu nhập và giải quyết chế độ quyền lợi liên quan (nếu có) tính hết ngày 06/4/2023”.

Về bảo hiểm xã hội mặc dù mỗi tháng Công ty đều trích 10.5% lương của người lao động để đóng bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên theo tra cứu VssID - Bảo hiểm xã hội số hiện tại Công ty đang chậm đóng Bảo hiểm xã hội cho người lao động là 2 năm (từ tháng 3/2021 đến tháng 3/2023). Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L đang chiếm dụng trái pháp luật tiền bảo hiểm của người lao động và vi phạm nghĩa vụ đóng bảo hiểm của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, dù bà N nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở nhưng Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L vẫn không chi trả lương, không đóng bảo hiểm xã hội là đã vi phạm nghiêm trọng quy định pháp luật về lao động, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bà N.

Vì vậy, bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết:

- Đối với tiền nợ lương: Buộc Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L trả cho bà Nguyễn Thị Tuyết N tiền nợ lương và lãi suất tổng cộng số tiền là: 41.552.978. Trong đó:

+ Tiền lương còn nợ tháng 01/9/2022 đến hết ngày 06/4/2023 là 40.695.173đ.

+ Tiền lãi tính đến hết ngày 30/06/2023 là: 857.805đ tính theo lãi suất huy động tiền gửi Ngân hàng Vietcombank đối với kỳ hạn gửi 1 tháng là 4,1%/năm. Cụ thể như sau:

Tiền lãi lương tháng 9/2022: 8.278.215đ x (4,1%/12) x 9 tháng = 254.555đ. Tiền lãi lương tháng 10/2022: 8.498.215đ x (4,1%/12) x 8 tháng =232.285đ. Tiền lãi lương tháng 11/2022: 3.175.313đ x (4,1%/12) x 7 tháng = 75.943đ.

Tiền lãi lương tháng 01/2023: 9.208.215.500đ x (4,1%/12) x 5 tháng = 157.307đ.

Tiền lãi lương tháng 02/2023: 8.618.215đ x (4,1%/12) x 4 tháng = 117.782đ. Tiền lãi lương tháng 04/2023: 2.917.000đ x (4,1%/12) x 2 tháng = 19.933đ.

- Đối với tiền bảo hiểm xã hội: Buộc Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho thời gian chậm đóng (cụ thể là 1 năm 11 tháng).

Ngày 20/12/2023, bà Nguyễn Thị Tuyết N có đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án xem xét cho bà N được rút lại một phần yêu cầu khởi kiện không yêu cầu tính lãi đối với số tiền nợ lương chậm trả, xác định lại số tiền lương bên phía Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L còn thiếu bà là 36.090.409đ (chứ không phải là 40.695.173đ như trong đơn khởi kiện) và buộc Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội đúng theo khoảng thời gian chưa đóng do bên Bảo hiểm xã hội tỉnh L xác định là 02 năm 07 tháng.

Bị đơn, Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L do ông Nguyễn Văn Tr là người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Tình hình hiện tại Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L rất khó khăn và đang xin thủ tục của cấp có thẩm quyền tỉnh L để tái cơ cấu để có nguồn thanh toán các công nợ tồn đọng. Chúng tôi kính đề nghị quý Toà xem xét, tạo điều kiện cho chúng tôi có thêm thời gian, cụ thể là cuối tháng 3/2024 để chúng tôi cơ cấu khoản nợ, lên phương án trả nợ cho các chủ nợ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Bảo hiểm xã hội tỉnh L do ông Trần S làm đại diện theo pháp luật trình bày:

Căn cứ hồ sơ, dữ liệu quản lý thu, sổ, thẻ tại BHXH tỉnh L đối với những người lao động đang làm việc tại Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L thì bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh ngày 01/01/1983 có mã số BHXH 4807021952, chức danh là hộ sinh được Công ty đăng ký tham gia BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN từ tháng 08/2020 đến tháng 03/2023 (02 năm 07 tháng), Công ty chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN của bà N với số tiền tạm tính là 26.813.525đ.

Đồng thời, Bảo hiểm xã hội tỉnh L đề nghị được vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu:

- Về tố tụng: Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung: yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tuyết N là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N và đề nghị giải quyết các vấn đề khác theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Bà Nguyễn Thị Tuyết N khởi kiện “Tranh chấp tiền lương theo hợp đồng lao động và tranh chấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội” với Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L có địa chỉ cư trú tại thành phố Tân An nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 32; Điểm c Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh L.

[2] Về việc xét xử vắng mặt Bị đơn và Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện việc niêm yết, tống đạt Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Biên bản phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập người đại diện theo pháp luật, người đại diện theo ủy quyền của Bị đơn đến các phiên tòa sơ thẩm nhưng đương sự không chấp hành. Riêng người đại diện theo pháp luật của Bảo hiểm xã hội tỉnh L vì lý do bận công việc không thể tham dự nên đã có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án. Hội đồng xét xử xét thấy phiên tòa hôm nay dù vắng mặt đương sự nêu trên nhưng Tòa án đã tiến hành đầy đủ thủ tục tố tụng nên việc xét xử vắng mặt đương sự này là đúng theo quy định tại Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[3] Về tranh chấp tiền lương giữa bà Nguyễn Thị Tuyết N và Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào Hợp đồng lao động ngày 03/8/2020 được ký kết giữa bà Nguyễn Thị Tuyết N với Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L do ông Phạm Thanh D là Giám đốc vận hành là đại diện ký hợp đồng lao động có nội dung nhận bà Nguyễn Thị Tuyết N vào làm việc tại Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L với chức danh là nữ hộ sinh, mức lương cơ bản là 4.559.000đ/tháng cùng với các tiền phụ cấp khác như tiền trực, phụ cấp độc hại, ăn giữa ca... nên tổng lương bà N được nhận là 11.687.500đ/tháng; loại hợp đồng lao động này được các bên xác định là hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Ngoài ra, Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L còn phải thực hiện các nghĩa vụ về Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật đối với người sử dụng lao động. Trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động thì giữa các bên phát sinh mâu thuẫn xuất phát từ việc Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L trả lương không đầy đủ cho bà N. Thời điểm Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L vi phạm nghĩa vụ trả lương cho bà N bắt đầu từ tháng 9/2022 nên dẫn đến việc bà N xin nghỉ việc tại Công ty. Ngày 07/4/2023, Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L ban hành Quyết định số 174/QĐNV-BVTWGLA chấm dứt hợp đồng lao động với bà Nguyễn Thị Tuyết N có nội dung cho bà Nguyễn Thị Tuyết N được hưởng thu nhập và giải quyết các chế độ, quyền lợi liên quan (nếu có) tính đến hết ngày 06/4/2023. Tuy nhiên, sau khi nghỉ việc, bà N vẫn chưa nhận được hết tiền lương của mình đã làm việc tại Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L nên bà N khởi kiện tranh chấp đòi tiền lương lao động với Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L. Trong quá trình bà N khởi kiện tại Tòa án, Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L đã được Tòa án triệu tập nhiều lần nhưng bên phía Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L cũng không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà N cũng như cung cấp các chứng cứ như bảng chấm công, bảng lương có liên quan đối với yêu cầu khởi kiện của bà N. Căn cứ vào những “Phiếu lương tháng” do bà N cung cấp được Phòng nhân sự của Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L gửi qua địa chỉ Email cho bà N có nội dung cụ thể như sau:

- Chi tiết lương tháng 9/2022: tiền lương của bà N sau khi được tính lương cơ bản, các trợ cấp khác cùng với việc trừ lại các chi phí như tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp v.v... thì bà N được thực lãnh 12.837.215đ nhưng Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L chỉ mới thanh toán cho bà N là 4.559.000đ và xác định là vẫn còn nợ bà N là 8.278.215đ.

- Chi tiết lương tháng 10/2022: tiền lương của bà N sau khi được tính lương cơ bản, các trợ cấp khác cùng với việc trừ lại các chi phí như tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp v.v... thì bà N được thực lãnh 13.057.215đ nhưng Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L chỉ mới thanh toán cho bà N là 4.559.000đ và xác định là vẫn còn nợ bà N là 8.498.215đ.

- Chi tiết lương tháng 11/2022: tiền lương của bà N sau khi được tính lương cơ bản, các trợ cấp khác cùng với việc trừ lại các chi phí như tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp v.v... thì bà N được thực lãnh 7.734.313đ nhưng Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L chỉ mới thanh toán cho bà N là 4.559.000đ và xác định là vẫn còn nợ bà N là 3.175.313đ.

- Chi tiết lương tháng 01/2023: tiền lương của bà N sau khi được tính lương cơ bản, các trợ cấp khác cùng với việc trừ lại các chi phí như tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp v.v... thì bà N được thực lãnh 12.482.138đ nhưng Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L chỉ mới thanh toán cho bà N là 3.085.660đ và xác định là vẫn còn nợ bà N là 9.396.478đ.

- Chi tiết lương tháng 02/2023: tiền lương của bà N sau khi được tính lương cơ bản, các trợ cấp khác cùng với việc trừ lại các chi phí như tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp v.v... thì bà N được thực lãnh 11.301.188đ nhưng Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L chỉ mới thanh toán cho bà N là 4.559.000đ và xác định là vẫn còn nợ bà N là 6.742.188đ.

Ngoài ra, trong các “Phiếu lương tháng” còn có nội dung xác định là hiện giờ do Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L hiện đang khó khăn nên sẽ tiếp tục trả khoản lương còn nợ của người lao động vào thời gian là tháng 6/2024 nhưng bà N không đồng ý nên đã khởi kiện tại Tòa án.

Như vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ căn cứ xác định Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L hiện còn nợ bà N tiền lương của 05 tháng đã làm việc với tổng số tiền là 36.090.409đ nên yêu cầu khởi kiện của bà N là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 95 Bộ luật lao động.

[4] Đối với yêu cầu tính tiền lãi phát sinh trên số tiền lương chậm thanh toán: Ngày 20/12/2023, bà Nguyễn Thị Tuyết N đã có đơn đề nghị rút lại yêu cầu tính lãi suất phát sinh trên số tiền lương chậm thanh toán. Nhận thấy, việc bà N rút lại yêu cầu tính lãi suất trên là do ý chí của bà N nên Hội đồng xét xử thống nhất không xem xét phần tiền lãi phát sinh trên số tiền lương chậm thanh toán.

[5] Về tranh chấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 168 Bộ luật Lao động; Khoản 1 Điều 44 Luật Việc làm; Khoản 1 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội; Quyết định số 595/QĐ- BHXH ngày 14/4/2017 của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành quy trình thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế (được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số 505/QĐ-BHXH ngày 27/3/2020), khi phát sinh hợp đồng lao động theo quy định pháp luật, người sử dụng lao động và người lao động phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế. Người sử dụng lao động có trách nhiệm lập hồ sơ người lao động theo quy định gửi đến Cơ quan Bảo hiểm xã hội để tham gia các loại bảo hiểm trên. Theo đó, hàng tháng Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tại Bảo hiểm xã hội tỉnh L cho bà N thì mới đúng theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào các “Phiếu lương tháng” được Phòng nhân sự của Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L gửi qua địa chỉ email cho bà N cũng có nội dung xác nhận là chưa “chốt sổ BHXH” đối với bà N, nhưng vẫn trừ lại tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN... của người lao động. Điều này cũng phù hợp với lời trình bày của cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh L xác định Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L vi phạm nghĩa vụ đóng tiền BHXH/BHYT/BHTN cho bà N. Từ những chứng cứ trên, có đủ căn cứ xác định Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L đã vi phạm nghĩa vụ về BHXH/BHYT/BHTN và các nghĩa vụ khác đã được các bên thỏa thuận tại Khoản 4.2 Điều 4 “Hợp đồng lao động” ngày 03/8/2020 được ký kết giữa bà N và Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L nên việc bà N khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần bệnh viện sản nhi L thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội cho bà N là có căn cứ chấp nhận.

Về thời gian thực hiện bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật: Theo đơn khởi kiện, bà N cho rằng Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L đã không thực hiện trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho bà trong khoảng thời gian thời gian từ tháng 4/2021 đến tháng 3/2023 là thời điểm bà N chấm dứt làm việc tại Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L, tổng cộng là 01 năm 11 tháng. Tuy nhiên, căn cứ theo lời trình bày của Bảo hiểm xã hội tỉnh L xác định Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L đăng ký tham gia BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN cho bà N từ tháng 08/2020 (là khi ký kết hợp đồng lao động) đến tháng 03/2023 (là khi chấm dứt hợp đồng lao động) là 02 năm 07 tháng (do có 01 tháng bà N nghỉ việc không hưởng lương) nhưng Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L chưa đóng bất cứ một khoản nào cho bà N trong khoảng thời gian bà N làm việc tại Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L. Sau khi biết được thời gian bà N làm việc tại Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L chưa được đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN nên bà N đã thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L phải thực hiện việc đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ, BNN với thời gian là 02 năm 07 tháng tương ứng với khoảng thời gian do Bảo hiểm xã hội tỉnh L cung cấp. Trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L không có ý kiến cũng như không cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong khi các tài liệu về tiền lương, các thông tin về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của người lao động đều do Công ty lưu giữ. Do đó, không có tài liệu nào khác để xác định mức đóng bảo hiểm xã hội, thời gian đóng bảo hiểm xã hội ngoài văn bản mà Bảo hiểm xã hội tỉnh L cung cấp. Vì vậy, trên cơ sở Văn bản cung cấp thông tin, tài liệu của Bảo hiểm xã hội tỉnh L, buộc Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L phải có trách nhiệm đóng hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà Nguyễn Thị Tuyết N, mã số BHXH 4807021952 trong khoảng thời gian là 02 năm 07 tháng với số tiền là 26.813.525đ.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật và quan điểm giải quyết vụ án trên là có căn cứ theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 1.887.118đ do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 32; Điều 35; Điều 39; Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Áp dụng Điều 95, Điều 168 Bộ luật lao động; Điều 18, Điều 19, Điều 21, Điều 22, Điều 23, Điều 85, Điều 86 Luật Bảo hiểm xã hội; Điều 13, Điều 14, Điều 15 Luật Bảo hiểm y tế; Điều 44 Luật Việc làm; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tuyết N yêu cầu Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L trả cho bà số tiền lương còn thiếu là 36.090.409đ.

Buộc Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L phải trả cho bà Nguyễn Thị Tuyết N số tiền lương còn thiếu là 36.090.409đ.

2. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi thực hiện nghĩa vụ do chậm trả tiền theo quy định tại Khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian còn phải thi hành.

3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tuyết N yêu cầu Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L trả cho bà số tiền lãi phát sinh do chậm trả lương là 857.805đ.

4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội” của bà Nguyễn Thị Tuyết N đối với Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L.

Buộc Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà Nguyễn Thị Tuyết N - mã số BHXH 4807021952 trong khoảng thời gian từ tháng 08/2020 đến tháng 03/2023 là 02 năm 07 tháng tại Bảo hiểm xã hội tỉnh L với số tiền là 26.813.525đ.

Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L còn phải chịu khoản tiền lãi do chậm đóng các khoản bảo hiểm trên cho Bảo hiểm xã hội tỉnh L với mức lãi suất theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội tương ứng với thời gian chậm đóng.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty cổ phần Bệnh viện sản nhi L phải chịu án phí lao động sơ thẩm là 1.887.118đ.

6. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp tiền lương theo hợp đồng lao động số 02/2024/LĐ-ST

Số hiệu:02/2024/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tân An - Long An
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 22/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về