Bản án về tranh chấp tiền lương số 06/2023/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 06/2023/LĐ-ST NGÀY 07/08/2023 VỀ TRANH CHẤP TIỀN LƯƠNG

Ngày 07 tháng 8 năm 2023, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án lao động sơ thẩm thụ lý số 01/2023/TLST-LĐ ngày 13/01/2023 về việc “Tranh chấp về tiền lương” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 304/2023/QĐXXST-LĐ ngày 15/6/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 261/2023/QĐST-LĐ ngày 12/7/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1995; Địa chỉ: D Đ, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (Bà H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn M;

Trụ sở: C7A/7A Tổ 14 ấp C, đường V, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ nơi hoạt động: F11/8D ấp F, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thanh T - Chức danh: Giám đốc;

Nơi cư trú: C7A/7A Tổ 14 ấp C, đường V, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Bà T vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 28/12/2022, biên bản lấy lời khai ngày 30/3/2023 nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Từ ngày 03/5/2022 đến ngày 10/10/2022 bà vào làm việc tại Công ty TNHH M với công việc thời vụ là may quần áo cho công ty. Giữa công ty và bà không có ký hợp đồng lao động. Theo thỏa thuận thì công ty trả tiền công cho bà mỗi ngày 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), thời gian làm việc là 08 giờ mỗi ngày, cứ mỗi 02 tuần công ty trả tiền cho bà một lần. Từ ngày 03/5/2022 đến ngày 30/6/2022 thì công ty đã trả cho bà đầy đủ tiền nhưng từ ngày 01/7/2022 đến ngày 10/10/2022 thì công ty không thanh toán cho bà thêm bất kỳ số tiền nào nữa. Công ty còn nợ lương của bà với số tiền là 24.000.000 đồng (Hai mươi bốn triệu đồng). Ngày 09/11/2022 tại biên bản làm việc của Ủy ban nhân dân xã V có đại diện Phòng Lao động thương binh và xã hội, cùng công an huyện, công an xã và Ủy ban thì bên công ty có bà Nguyễn Thanh T là giám đốc công ty đứng ra đại diện hứa từ ngày 10/11/2022 đến ngày 20/11/2022 sẽ trả trước cho bà cùng 2 người làm chung với bà số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng), số tiền còn lại thì đến ngày 01/01/2023 sẽ thanh toán hết. Tuy nhiên, kể từ ngày 10/11/2022 cho đến nay bà không nhận được bất kỳ số tiền nào từ công ty.

Do đó, bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn M có trách nhiệm trả cho bà số tiền là 24.000.000 đồng (Hai mươi bốn triệu đồng). Ngoài ra bà không yêu cầu thanh toán thêm bất kỳ số tiền nào nữa.

Do bà bận làm việc tại nơi làm mới, nên việc xin nghỉ thường xuyên đến Tòa án sẽ ảnh hưởng việc làm, với lại ở Quận A đến đây xa quá, vì vậy bà đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt bà trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Ngoài ra, bà nhận thấy Công ty M không có thiện chí hòa giải nên bà đề nghị Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nhưng người đại diện theo pháp luật của bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn M vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án và cũng không thể hiện ý kiến của mình bằng bất cứ văn bản nào.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

* Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, thời hạn chuẩn bị xét xử chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung: Áp dụng Bộ luật lao động năm 2019, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; về án phí, bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H khởi kiện tranh chấp về tiền lương đối với bị đơn Công ty Trách nhiệm hữu hạn M. Do bị đơn có trụ sở tại huyện B nên căn cứ vào khoản 5 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về sự vắng mặt của các đương sự:

- Đối với nguyên đơn bà Nguyễn Thị H có yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn Công ty TNHH M: Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cho người đại diện theo pháp luật của bị đơn Công ty TNHH M nhưng bị đơn vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về áp dụng pháp luật: Do giao kết hợp đồng lao động được thực hiện vào thời điểm Bộ luật Lao động năm 2019 có hiệu lực nên Tòa án áp dụng Bộ luật lao động năm 2019 đề giải quyết vụ án.

[5] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy như sau: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H yêu cầu Công ty TNHH M trả tiền lương còn nợ là 24.000.000 đồng (Hai mươi bốn triệu đồng).

[6] Còn bị đơn Công ty TNHH M đã được Tòa án triệu tập đến đề ghi nhận ý kiến, tiến hành thủ tục giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ cũng như việc tham gia phiên tòa xét xử giải quyết vụ án với nguyên đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Vì vậy, bị đơn đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu khởi kiện, lời trình bày cũng như chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để làm cơ sở xem xét giải quyết vụ án.

[7] Về hình thức của giao kết hợp đồng lao động: Theo nguyên đơn trình bày thì nguyên đơn được bị đơn thuê làm việc theo thời vụ, do đó hình thức giao kết hợp đồng lao động giữa các bên bằng lời nói phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Bộ luật Lao động năm 2019.

[8] Qua xem xét Biên bản về tranh chấp lao động do Ủy ban nhân dân xã V, huyện B lập ngày 09/11/2022 (có sự tham dự của đại diện Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện B, đại diện Đội An ninh Công an huyện B, đại diện Ủy ban nhân dân xã V và Công an khu vực ấp F của xã V) thì bà Nguyễn Thanh T là Giám đốc Công ty TNHH M xác nhận là còn thiếu tiền lương của bà H và cam kết từ ngày 10/11/2022 đến ngày 20/11/2022 thanh toán trước 15.000.000 đồng, số tiền còn lại sẽ trả trước tết Tây (01/01/2023). Tuy nhiên, bị đơn không thực hiện việc cam kết nên nguyên đơn mới khởi kiện.

Căn cứ theo quy định tại Điều 90, Điều 94, Điều 95, Điều 96 và Điều 97 Bộ luật Lao động năm 2019 thì bị đơn đã vi phạm việc trả lương theo định kỳ cho nguyên đơn. Điều này có sự xác nhận của bị đơn. Do đó, nguyên đơn bà H yêu cầu bị đơn trả số tiền lương còn nợ là có cơ sở chấp nhận.

[9] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H đối với bị đơn Công ty TNHH M về việc yêu cầu trả tiền lương còn nợ là 24.000.000 đồng (Hai mươi bốn triệu đồng).

[10] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm.

[11] Xét lời đề nghị của đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 92, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 14, Điều 90, Điều 94, Điều 95, Điều 96 và Điều 97 Bộ luật Lao động năm 2019; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tun xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H đối với bị đơn Công ty TNHH M về việc tranh chấp tiền lương.

Buộc Công ty TNHH M có trách nhiệm thanh toán tiền lương còn thiếu cho bà Nguyễn Thị H là 24.000.000 đồng (Hai mươi bốn triệu đồng).

Kể từ ngày nguyên đơn bà Nguyễn Thị H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn Công ty TNHH M không thi hành xong khoản tiền nêu trên thì còn phải chịu lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí: Bị đơn Công ty TNHH M phải chịu án lao động sơ thẩm là 720.000 đồng (Bảy trăm hai mươi nghìn đồng).

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H được miễn nộp tạm ứng án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H và Bị đơn Công ty TNHH M vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

102
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp tiền lương số 06/2023/LĐ-ST

Số hiệu:06/2023/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 07/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về