Bản án về tranh chấp tiền lương số 01/2023/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 01/2023/LĐ-ST NGÀY 13/02/2023 VỀ TRANH CHẤP TIỀN LƯƠNG

Ngày 13 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 93/2022/TLST-LĐ ngày 03/10/2022 về việc: “Tranh chấp về tiền lương” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXXST–LĐ ngày 09 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự:

Ngun đơn: Ông Lê Hữu T, sinh năm 1972; địa chỉ: Số 317, tổ 11, đường T, phường P, thành phố T, tỉnh B; có mặt.

Bị đơn: Công ty TNHH H; địa chỉ trụ sở chính: 339 Quang Trung, Phường 10, quận G, Thành phố H; địa chỉ chi nhánh: ĐH 409, khu phố 6, phường V, thị xã T, tỉnh B.

Người đại diện hợp pháp: Bà Đỗ Thị Thu V – Chức danh: Giám đốc; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/9/2022, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Lê Hữu T trình bày:

Ngày 22/02/2022, ông được Công ty TNHH H (Công ty H) gửi thư mời nhận việc. Ngày 01/3/2022, ông bắt đầu thời gian thử việc 02 tháng tại Công ty H với vị trí quản lý kinh doanh với mức lương là 15.000.000 đồng/tháng. Trong quá trình làm việc thì ông luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao và không phạm bất cứ lỗi gì, thậm chí Giám đốc còn hứa hỗ trợ tiền tiếp khách 5.000.000 đồng/tháng, nhưng Giám đốc không thực hiện. Hết thời gian thử việc 02 tháng, ông thông báo cho Giám đốc biết để ký hợp đồng lao động chính thức, tuy nhiên Giám đốc chỉ hứa nhưng không thực hiện, vì thế ông quyết định nghỉ việc.

Sau khi ông nghỉ việc thì đầu tháng 5/2022, Giám đốc có mời ông làm lại, ông có quay lại làm việc đến hết tháng 5 và 04 ngày của đầu tháng 6/2022. Do Giám đốc chỉ hứa mà không ký hợp đồng lao động chính thức với ông nên ông quyết định nghỉ việc. Lương tháng 5 và 04 ngày tháng 6/2022 thì Công ty vẫn chưa thanh toán cho ông. Nhiều lần liên hệ yêu cầu Công ty H thanh toán tiền lương những ngày làm việc nêu trên nhưng Công ty H không thanh toán. Ông T khởi kiện yêu cầu Công ty H phải thanh toán tiền lương tháng 5 và 04 ngày tháng 6/2022 với số tiền 15.000.000 đồng.

Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty H không đến Tòa án tham gia tố tụng cũng như không có văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn đã tham gia tố tụng theo quy định, bị đơn không tham gia tố tụng là tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng.

Về nội dung: Nguyên đơn khởi kiện nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải thanh toán tiền lương trong thời gian làm việc, bị đơn có địa chỉ Chi nhánh tại thị xã T, tỉnh B, vụ việc đã được Phòng Lao động Thương binh và Xã hội thị xã T tiến hành hòa giải không thành. Do đó, quan hệ tranh chấp là tranh chấp về tiền lương, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh B.

[2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Tòa án triệu tập hợp lệ người đại diện hợp pháp của bị đơn tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng người đại diện hợp pháp của bị đơn vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ lao động xác lập, thực hiện giữa các bên: Căn cứ nội dung Thư mời nhận việc ngày 22/02/2022, Sao kê chi tiết giao dịch ngày 12/10/2022 của Ngâng hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh B, Bản chụp màn hình điện thoại nội dung tin nhắn trao đổi Zalo do nguyên đơn ông Lê Hữu T cung cấp có đủ căn cứ xác định giữa ông Lê Hữu T và Công ty H có xác lập quan hệ lao động thử việc về vị trí làm việc, mức lương như trình bày của ông Lê Hữu T, có cơ sở xác định ông Lê Hữu T làm việc và được Công ty H thanh toán tiền lương các tháng 3, 4 năm 2022, không có cơ sở xác định thời gian làm việc tháng 5 và những ngày đầu tháng 6/2022. Tại phiên tòa, ông Lê Hữu T khẳng định trình bày của mình là hoàn toàn trung thực, chứng cứ bản chấm công do Công ty H nắm giữ, ông không thể cung cấp cho Tòa án. Xét thấy, bị đơn Công ty H đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, biết được yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với mình nhưng không có ý kiến phản đối. Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị đơn cũng không có mặt để tham gia. Điều này chứng tỏ bị đơn đã tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng, không quan tâm, bỏ mặc hậu quả pháp lý có thể xảy ra. Mặt khác, tại điểm b khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án”. Tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”.

[4] Từ những đánh giá, nhận định như trên, xét thấy nguyên đơn khởi kiện đối với bị đơn là có căn cứ chấp nhận, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát là không phù hợp.

[5] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho nguyên đơn.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 40, Điều 147, Điều 266, Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 94, Điều 95 của Bộ luật Lao động;

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Hữu T đối với bị đơn Công ty TNHH H về “Tranh chấp về tiền lương”:

Buộc Công ty TNHH H phải thanh toán cho ông Lê hữu T tiền lương tháng 5 và 04 ngày tháng 6/2022 số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

2. Về án phí:

Bị đơn Công ty TNHH H phải nộp 450.000 đồng (Bốn trăm năm mươi nghìn đồng) án phí lao động sơ thẩm.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp tiền lương số 01/2023/LĐ-ST

Số hiệu:01/2023/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 13/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về