Bản án về tranh chấp thực hiện nghĩa vụ thanh toán (chiếm đoạt tiền hứa thưởng) số 12/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 12/2024/DS-PT NGÀY 12/01/2024 VỀ TRANH CHẤP THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THANH TOÁN

Ngày 12 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 186/2023/TLPT-DS ngày 07/11/2023, về việc “Tranh chấp thực hiện nghĩa vụ thanh toán”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 59/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 265/2023/QĐPT-DS ngày 06/12/2023; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 224/2023/QĐ-PT ngày 28/12/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lê Quang A - sinh năm: 1977; Địa chỉ: K536/H09/22 đường Đ, phường K, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Phan H - sinh năm: 1975; Địa chỉ: Số 11 đường H, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Thu P - Sinh năm: 2000. Địa chỉ: Số 52 đường T, phường An H Tây, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng, (theo giấy ủy quyền ngày 05/12/2023).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nguyễn Thanh S - Sinh năm: 1969. Địa chỉ: K382H21/7 đường N, phường C, quận H Châu, thành phố Đà Nẵng.

+ Ông Lê Văn S, sinh năm: 1977. Địa chỉ liên lạc: Số 81 - 89 đường N, phường T, quận H Châu, thành phố Đà Nẵng.

+ Công ty dịch vụ Điện lực miền T. Địa chỉ: Số 81 - 89 đường N, phường T, quận H Châu, thành phố Đà Nẵng.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn S, chức vụ: Trưởng phòng kế hoạch kỹ thuật, (theo giấy ủy quyền số 3626/GUQ-CPSC ngày 08/9/2023).

- Người kháng cáo: Bị đơn ông Phan H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án dân sự sơ thẩm nội dung vụ án như sau:

* Nguyên đơn ông Lê Quang A trình bày:

Ngày 31/12/2019, giữa ông với ông Phan H đã có thỏa thuận thống nhất về việc giới thiệu kết nối Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T (thông qua ông H) vào ký kết hợp đồng gói Quản lý vận hành nhà máy điện năng lượng mặt trời FUJIWARA 50MW tại Khu kinh tế Nhơn Hội, Bình Định của Công ty TNHH Xây dựng FUJIWARA (thông qua ông). Khi hợp đồng được ký kết thành công, bản thân ông được Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T hứa thưởng là 250.000.000 đồng thông qua ông H là đầu mối. Số tiền trích thưởng này sẽ được phân chia là ba phần: Ông H được hưởng một phần, ông được hưởng hai phần. Vậy số tiền ông được hưởng là 166.000.000 đồng Việt Nam.

Tuy nhiên, sau khi hợp đồng được ký kết và Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T đã chuyển tiền hứa thưởng cho ông H nhiều lần. Trong thời gian từ 31/03/2021 đến trước ngày 05/11/2021 ông đã liên lạc ông H, ông H hứa hẹn chuyển tiền cho ông nhưng sau khi nhận tiền đợt 2 cũng là đợt cuối cùng của Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T chuyển tiền hứa thưởng, ông H đã nảy sinh lòng tham chiếm đoạt luôn phần tiền hứa thưởng của ông. Ông đã liên lạc ông H, nhưng ông H luôn lẫn tránh không chịu gặp mặt.

Do vậy, ông yêu cầu Tòa án buộc ông Phan H phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền 166.000.000 đồng.

* Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:

Giữa ông Phan H và ông Lê Quang A không có hứa hẹn hay làm việc chung với nhau liên quan đến nội dung ông A đang khởi kiện, nên không đồng ý với yêu cầu của ông A.

Đối với các tin nhắn Zalo, gmail mà ông A cung cấp thì ông H thừa nhận đó là nội dung tin nhắn của ông H trao đổi với ông A. Tuy nhiên, đây là khoảng tiền nợ cá nhân của ông H đối với ông A và không liên quan gì đến tiền từ dự án về Quản lý vận hành nhà máy điện năng lượng mặt trời FUJIWARA 50MW tại Khu kinh tế Nhơn Hội, Bình Định của Công ty TNHH Xây Dựng FUJIWARA. Do vậy, đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông A đối với ông H.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Nguyễn Thanh S trình bày:

Ông có biết ông Lê Quang A và ông Phan H, (ông H làm cùng đơn vị với ông S), cuối năm 2021, ông A có nhờ ông S tác động ông H trả cho ông A số tiền 166.000.000 đồng do hai ông này hợp tác với nhau, thì giữa ông S và ông A có thỏa thuận, nếu lấy được tiền, ông A sẽ cho ông S ½ giá trị (83.000.000 đồng), sau đó ông S có nói chuyện với ông H về số tiền ông A yêu cầu, thì ông H nói lại đây là việc cá nhân sẽ tự giải quyết với ông A. Theo ông S thì việc ăn chia hoa hồng cụ thể như thế nào thì ông S không biết, nhưng hai ông H và ông A nên hòa giải với nhau. Các tin nhắn trao đổi việc ông A nhờ ông Sơn đòi tiền ông H do ông A cung cấp thì ông S thừa nhận có.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T và ông Lê Văn S trình bày:

Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T được ông A giới thiệu dự án tại Bình Định là đúng, đó là dự án Quản lý vận hành nhà máy điện năng lượng mặt trời FUJIWARA 50MW tại Khu kinh tế Nhơn Hội, Bình Định của Công ty TNHH Xây Dựng FUJIWARA. Trước khi nhận dự án, ông A đã dẫn chúng tôi vào khảo sát thực tế tại Bình Định. Sau khi hoàn thành dự án, chúng tôi có chuyển tiền cảm ơn cho ông A và ông A nói với chúng tôi, mọi đầu mối cứ chuyển tiền cảm ơn cho anh Phan H. Chúng tôi đã chuyển tiền nhiều lần cho ông Phan H (theo yêu cầu của ông A) số tiền 270.000.000 đồng (có bảng kê và chứng từ chuyển tiền kèm theo). Còn việc ăn chia giữa ông A và ông H thì chúng tôi không biết.

* Với nội dung nêu trên tại Bản án dân sự số 59/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xử và quyết định:

Áp dụng: khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 235 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 351, 352, 468 Bộ luật Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Quang A đối với ông Phan H về việc“Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán”.

Xử:

1. Buộc ông Phan H phải thanh toán cho ông Lê Quang A số tiền 166.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và ông Lê Quang A có đơn yêu cầu thi hành án mà ông Phan H không thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì hàng tháng ông Phan H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc ông Phan H phải chịu số tiền 8.300.000 đồng.

Hoàn trả cho Lê Quang A số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.150.000 đồng, theo biên lai thu số 0005653 ngày 14/12/2022, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án.

* Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/9/2023 ông Phan H kháng cáo với nội dung: Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát thành phố Đà Nẵng phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án như sau:

+ Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm là đảm bảo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về quan điểm giải quyết: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phan H. Giữ nguyên Bản án dân sự số 59/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; sau khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Công ty dịch vụ Điện lực miền T, ông Nguyễn Thanh S, ông Lê Văn S vắng mặt lần hai không có lý do. Căn cứ Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.

[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Phan H đối với yêu cầu khởi kiện của ông Lê Quang A buộc ông phải thanh toán cho ông Lê Quang A số tiền 166.000.000 đồng đã nhận từ Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T, thì thấy:

Giữa ông Lê Quang A (Công tác tại Công ty cổ phần tư vấn Điện 4) và ông Phan H (Công tác tại Trung tâm dịch vụ kỹ thuật 2 - Công ty DVKT truyền tải điện thuộc Tổng Công ty truyền tải điện Quốc gia) là chỗ quen biết nhau trong ngành điện và có hỗ trợ với nhau trong việc giới thiệu và nhận thi công các dự án về điện.

Ngày 31/12/2019, ông A và ông H có giới thiệu cho Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T làm dự án Quản lý vận hành nhà máy điện năng lượng mặt trời FUJIWARA 50MW tại Khu kinh tế Nhơn Hội Bình Định của Công ty TNHH Xây Dựng FUJIWARA (ông Lê Văn S là người trực tiếp nhận dự án và chuyển tiền cho ông Phan H), các bên thỏa thuận“hợp đồng ký 03 năm và phí dịch vụ cho An một năm 300 triệu” (BL 23), sau đó các bên có thỏa thuận lại sẽ bớt 50 triệu, số tiền còn lại Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T phải chuyển cho ông A là 250.000.000 đồng, số tiền này ông A và ông H thỏa thuận chia thành 03 phần, ông A được 02 phần (166 triệu), ông H 01 phần (83 triệu). Sau khi hoàn thành dự án, Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T đã chuyển trả tiền theo thỏa thuận cho ông H nhiều lần với tổng số tiền 270.000.000 đồng, sở dĩ việc chuyển tiền cho ông H là theo đại diện Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T cho rằng, ông A yêu cầu mọi đầu mối cứ chuyển tiền phí dịch vụ cho ông H. Tuy nhiên, sau khi nhận tiền từ Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T (thông qua ông Lê Văn S), thì ông H không giao lại cho ông A như đã thỏa thuận. Điều này phù hợp với tài liệu chứng cứ ông A cung cấp là các tin nhắn qua lại giữa ông H và ông A và tin nhắn nhờ ông Nguyễn Thanh S tác động đòi tiền ông H.

Như vậy, việc ông A cho rằng có giới thiệu cho Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T làm dự án Quản lý vận hành nhà máy điện năng lượng mặt trời FUJIWARA 50MW tại Khu kinh tế Nhơn Hội, Bình Định của Công ty TNHH Xây Dựng FUJIWARA là có thật; Việc Công ty Dịch vụ Điện lực Miền T (thông qua ông S) có chuyển tiền cho ông Phan H là có thật; Việc ông H thừa nhận nội dung tin nhắn là có, nhưng chỉ thừa nhận đây là món nợ cá nhân với ông A, nhưng không nói cụ thể nợ bao nhiêu? Số tiền ông H nhận từ ông S phù hợp với lời khai của ông A và ông A không thừa nhận việc cho ông H mượn tiền, trong khi đó các chứng cứ, tin nhắn do ông Hnhắn cho ông A trao đổi nhờ ông A tác động Công ty TNHH Xây Dựng FUJIWARA để ký được hợp đồng; tin nhắn hứa hẹn trả nợ và xin số tài khoản của ông A để ông H chuyển trả tiền cho ông A (BL 17-23) đã thể hiện việc ông H và ông A trao đổi liên quan đến khoảng tiền mà ông A đang yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông H phải có trách nhiệm trả cho ông A số tiền 166.000.000 đồng là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông A đối với ông H và buộc ông H phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông A số tiền 166.000.000 đồng là phù hợp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền không cung cấp được thêm tài liệu, chứng cứ gì khác so với giai đoạn sơ thẩm. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông H. Giữ nguyên Bản án dân sự số 59/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa.

[3] Án phí dân sự sơ thẩm: 8.300.000đồng, ông Phan H phải chịu.

- Ông Lê Quang A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.150.000đồng theo biên lai thu số 0005653 ngày 14/12/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

[4] Án phí dân sự phúc thẩm: 300.000đồng, ông Phan H phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 308, các Điều 147, 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 351, 352, 468 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của ông Phan H;

Giữ nguyên Bản án dân sự số 59/2023/DS-ST ngày 12/9/2023 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Quang A đối với ông Phan H về việc “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán”.

1. Buộc ông Phan H phải thanh toán cho ông Lê Quang A số tiền 166.000.000 đồng (một trăm sáu mươi sáu triệu đồng).

Kể từ ngày ông Lê Quang A có đơn yêu cầu thi hành án mà ông Phan Hkhông thực hiện nghĩa vụ thanh toán thì hàng tháng ông Phan H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: 8.300.000đồng (tám triệu ba trăm nghìn đồng), ông Phan H phải chịu.

- Hoàn trả cho Lê Quang A số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.150.000đồng (bốn triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0005653 ngày 14/12/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

3. Án phí dân sự phúc thẩm: 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng), ông Phan H phải chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu số 0002342 ngày 18/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thực hiện nghĩa vụ thanh toán (chiếm đoạt tiền hứa thưởng) số 12/2024/DS-PT

Số hiệu:12/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về