TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 164/2023/DS-PT NGÀY 12/12/2023 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ VÀ TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU NHÀ
Trong các ngày 11 và 12 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 102/2023/TLPT-DS ngày 01 tháng 8 năm 2023, về “Tranh chấp thừa kế và tranh chấp quyền sở hữu nhà”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 42/2023/DS-ST ngày 29 tháng 03 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 155/2023/QĐ-PT ngày 25 tháng 10 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 123/QĐ-PT ngày 21 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ngô Văn H, sinh năm: 1947 Địa chỉ: Số A, Sông C, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang. Có mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Ngô Văn H là ông Vũ Anh Q - là trợ giúp viên pháp lý hạng II của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H. Có mặt 2. Bà Ngô Thị T Địa chỉ: Số A, Sông C, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện hợp pháp (đại diện theo ủy quyền) của bà T: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm: 1957 (theo văn bản ủy quyền ngày 13/7/2020). Có mặt Địa chỉ: Số A, Sông C, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
3. Bà Ngô Thị Đ Địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Đ: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm: 1957 (theo văn bản ủy quyền ngày 15/7/2020). Có mặt.
Địa chỉ: Số A, Sông C, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
4. Bà Ngô Thị Y Địa chỉ: Ấp C, xã P, huyện V, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện hợp pháp (đại diện theo ủy quyền) của bà Y: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm: 1957 (theo văn bản ủy quyền ngày 13/11/2020). Có mặt Địa chỉ: Số A, Sông C, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
- Bị đơn: Ông Ngô Minh Đ1, sinh năm 1963 Địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang. Có mặt Người đại diện theo ủy quyền của ông Đ1: Ông Trần Văn Đ2, sinh năm 1985. Có mặt Địa chỉ: Khóm T, thị trấn C, huyện C, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lưu Thị Đ3, sinh năm 1963 Địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Đ3: Bà Nguyễn Thị T1 (theo văn bản ủy quyền ngày 22/10/2020).
Địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
2. Bà Nguyễn Thị T1 Địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang. Có mặt
3. Bà Ngô Thị Kim Ú Địa chỉ: Khu V, phường I, thành phố V, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt
4. Bà Nguyễn Thị A 5. Chị Ngô Thị Ngọc D 6. Chị Ngô Thị Ngọc H1 7. Chị Ngô Thị Nh Người đại diện theo ủy quyền của bà A, D, H1, Nh: Ông Ngô Minh Đ1. Cùng địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
8. Anh Ngô Ngọc N1. Có mặt Địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
9. Anh Ngô Văn Hoàng N2. Vắng mặt 10. Anh Ngô Văn B 11. Anh Ngô Văn N3 Người đại diện hợp pháp (đại diện theo ủy quyền) của anh B, N3: Bà Lưu Thị Đ3. Cùng địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
12. Ủy ban nhân dân thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
Địa chỉ: Số A, Quốc lộ F, khu V, phường I, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Võ Thị Hồng L - Trưởng phòng Lao động - Thương binh và xã hội thành phố V, tỉnh Hậu Giang. Có đơn xét xử vắng mặt 13. Dương Thanh H2. Vắng mặt.
Địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
14. Trần Văn L1. Vắng mặt Địa chỉ: Ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang.
* Người kháng cáo: Ông Ngô Minh Đ1
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau:
Nguyên đơn ông Ngô Văn H trình bày: Cha ông tên Ngô Văn D1 (chết 1970) và mẹ tên Hồ Thị H3 (chết 1987), có 07 người con là ông Ngô Văn H, bà Ngô Thị T, bà Ngô Thị Đ, bà Ngô Thị Y, ông Ngô Văn Q1 (đã chết), ông Ngô Minh Đ1, bà Ngô Thị Kim Ú. Khi còn sống cha mẹ ông tạo lập được 03 phần đất do khai hoang và mua, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi cha mẹ chết, đến năm 1990 ông đứng ra phân chia đất thừa kế cho các anh em trai trong gia đình (không chia cho những người con gái), có sự chứng kiến của chú ruột đại diện dòng họ, việc chia đất không có làm giấy tờ, chỉ nói miệng. Các phần đất của cha mẹ để lại gồm những phần và được phân chia như sau:
- Phần đất thứ nhất: Diện tích 08 công tại số A đường C, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang. Phần đất này ông được phân chia, trên phần đất có căn nhà gỗ (cũ) của cha mẹ và một số cây trồng trên đất; sau khi phân chia ông và ông Đ1 tiếp tục quản lý sử dụng. Năm 2002, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến năm 2005, bà Ngô Thị Kim Ú có tranh chấp với ông và được Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang giải quyết ổn định cho bà Ngô Thị Kim ú 5,6 công. Diện tích còn lại ông đang quản lý sử dụng và đứng tên trên giấy là khoảng 2,4 công, ông chưa điều chỉnh lại diện tích trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Phần đất thứ hai: Diện tích 21 công tại Kênh C Mỹ, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang, phân chia làm hai phần: cho ông 1/2 và cho ông Ngô Minh Đ1 1/2 có sự chứng kiến của bà Lưu Thị Đ3. Trên phần đất có một số cây trồng lâu năm và hàng năm của cha mẹ để lại, sau khi phân chia ông và ông D1 tiếp tục quản lý canh tác nhiều năm. Đến năm 2001 ông Đ1 tự ý đăng ký toàn bộ quyền sử dụng phần đất này mà ông không biết.
- Phần đất thứ ba: Diện tích 13 công, tại số I đường P, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang, phân chia cho ông Ngô Văn Q2. Trên phần đất có một số cây trồng lâu năm, hàng năm của cha mẹ để lại và ông Q2 tiếp tục quản lý sử dụng, sau khi ông Q2 chết đến năm 2002 thì bà Lưu Thị Đ3 (vợ ông Q2) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 2003, bà Đ3 đã chuyển nhượng 04 công cho ông Dương Thanh H2. Nay diện tích còn lại khoảng 09 công.
Nay nguyên đơn ông Ngô Văn H yêu cầu chia thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất theo pháp luật gồm: Phần đất tại phần đất 21 công (kênh C Mỹ) do ông Ngô Minh Đ1 đứng tên thửa 319 diện tích 20.417,2m2 (không yêu cầu chia phần diện tích 28,5m2); Phần đất 2,4 công (Sông C) diện tích 2.500,0m2 thuộc các thửa 63,64,105,520 (theo kết quả đo đạc mới); Phần đất 09 công (đường P) do bà Lưu Thị Đ3 quản lý diện tích 12.199,6m2 thửa 192, 200, cụ thể:
- Phần đất thứ nhất: Đối với phần đất 2,4 công (Sông C), ông H yêu cầu được nhận toàn bộ diện tích đất, nếu có căn cứ chia thừa kế cho các đồng thừa kế ông sẽ trả giá trị phần di sản lại cho các đồng thừa kế theo pháp luật; về phần nền mộ ông bà yêu cầu để làm đất hương quả gia đình ông quản lý thờ cúng; về cây trồng, công trình trên đất không tranh chấp, nếu có căn cứ chia thì cây trồng trên phần đất của ai thì người đó được quyền sở hữu.
- Phần đất thứ hai: Đối với phần đất 21 công (kênh C Mỹ), ông H đồng ý để ông Ngô Minh Đ1 nhận toàn bộ phần hiện vật là quyền sử dụng đất và yêu cầu được nhận giá trị phần thừa kế theo pháp luật; về cây trồng trên đất không yêu cầu hay tranh chấp gì.
- Phần đất thứ ba: Đối với phần đất 09 công (đường P), ông H đồng ý để bà Lưu Thị Đ3 nhận toàn bộ phần hiện vật là quyền sử dụng đất và yêu cầu được nhận giá trị phần thừa kế theo pháp luật; về cây trồng, công trình trên đất không yêu cầu hay tranh chấp gì.
Thứ hai, về tranh chấp quyền sở hữu nhà:
Nguyên vào năm 2012, ông được Ủy ban nhân dân thành phố V hỗ trợ nhà tình nghĩa vì ông là thương binh hạng 2/4, theo Quyết định số 121/QĐ-UBND ngày 16/01/2012. Theo quyết định thì Ủy ban nhân dân thành phố V trao tặng số tiền 30.000.000 đồng để xây dựng nhà tình nghĩa (không tặng cho căn nhà tình nghĩa) từ kinh phí của Công ty TNHH Một thành viên X. Do kinh phí hỗ trợ xây dựng không đủ, nên ông Ngô Minh Đ1 đã góp tiền vào xây dựng, nhưng nguồn tiền mà ông Đ1 có được là do ông Đ1 canh tác trên đất của cha mẹ để lại. Sau khi xây dựng xong, ông cưới vợ nên ở tại căn nhà gỗ cũ và ông để cho ông Đ1 ở căn nhà tình nghĩa.
Nay ông H yêu cầu bị đơn ông Đ1 phải giao trả căn nhà tình nghĩa (nhà chính) cho ông vì đây là quyền lợi chính trị. Đối với các phần nhà phụ, công trình liền kề nhà chính ông H yêu cầu ông Đ1 phải tháo dỡ di dời, để giao trả lại nhà chính, về giá trị căn nhà tình nghĩa (nhà chính) do ông Đ1 bỏ tiền vào xây dựng, ông H đồng ý trả lại tiền theo kết quả định giá (trừ đi số tiền 30.000.000 đồng).
- Các nguyên đơn bà Ngô Thị T, bà Ngô Thị Đ, bà Ngô Thị Y theo các đơn khởi kiện (năm 2017, bút lục 62, chia 21 công), đơn khởi kiện bổ sung (ngày 28/6/2018, chia 09 công, bl 408) và đơn rút lại một phần yêu cầu (ngày 11/3/2019, rút yêu cầu hủy giấy, bút lục 607) và biên bản hòa giải, tài liệu, chứng cứ và có người đại diện ủy quyền bà Nguyễn Thị T1 trình bày yêu cầu như sau:
Về yêu cầu chia thừa kế tài sản là quyền sử dụng đất theo pháp luật, cụ thể:
- Phần đất thứ nhất: Phần đất ở C, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang. Diện tích còn lại khoảng 2,4 công, 03 nguyên đơn không có đơn yêu cầu khởi kiện chia thừa kế. Nhng ông H có yêu cầu chia thừa kế, nếu có căn cứ chia thừa kế thì 03 nguyên đơn bà T, bà Đ, Y nhận di sản là giá trị và để lại phần di sản hiện vật được chia thừa kế cho ông H. Đối với nền mộ gia đình, yêu cầu được dùng làm hương quả gia đình giao cho ông H quản lý.
- Phần đất thứ hai: Đối với phần đất 21 công (kênh C Mỹ) giấy do ông Ngô Minh Đ1 đứng tên tại thửa 319 diện tích 20.417,2m2 (không yêu cầu chia phần diện tích 28,5m2). Ba nguyên đơn bà T, bà Đ, Y yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật, nhưng đồng ý nhận giá trị kỷ phần thừa kế và đồng ý để hiện vật phần đất lại cho ông Đ1 tiếp tục quản lý sử dụng.
- Phần đất thứ ba: Đối với phần đất còn lại khoảng 09 công (đường P), do bà Lưu Thị Đ3 đứng tên trên giấy diện tích 12.199,6m2 thửa 192, 200. Ba nguyên đơn bà T, bà Đ, Y yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật, nhưng đồng ý nhận giá trị kỷ phần thừa kế và đồng ý để hiện vật phần đất lại cho gia đình bà Đ3 tiếp tục quản lý sử dụng.
- Bị đơn ông Ngô Minh Đ1 theo các ý kiến phản bác (ngày 17/4/2017 bút lục 167); đơn phản tố (ngày 20/11/2020, yêu cầu công nhận quyền sở hữu nhà, bút lục 922) và các ý kiến theo biên bản hòa giải, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ thể hiện:
Thứ nhất, về tranh chấp chia di sản thừa kế:
Ông Đ1 thừa nhận 03 phần đất trên về nguồn gốc là của cha mẹ tạo lập là cụ Ngô Văn D1 (chết 1970) và cụ Hồ Thị H3 (chết 1987); các cụ có các người con như trên. Hai cụ tạo lập đất do khai hoang và mua, nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi các cụ chết anh em gia đình đã tiến hành phân chia xong từ khoảng năm 1989, các anh em trong gia đình không ai phản đối gì, cụ thể phân chia như sau:
- Phần thứ nhất: Tại Sông C, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang, đúng đã phân chia cho ông Ngô Văn H. 08 công và đã cấp giấy chứng nhận quyền, năm 2005, bà Ngô Thị Kim Ú được Tòa án giải quyết ổn định cho bà Ngô Thị Kim Ú 5,6 công. Diện tích còn lại ông H đang đứng tên trên giấy khoảng 2,4 công.
- Phần đất thứ hai: Đối với phần đất 21 công (kênh C Mỹ), phần đất này phân chia cho ông toàn bộ và hộ ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 319 năm 2001 với tổng diện tích trên giấy là 21.451 m2; và ông đã ổn định sử dụng không ai có tranh chấp gì.
- Phần đất thứ ba: Diện tích 13 công, tại số I đường P, ấp T, xã H, thành phố V, tỉnh Hậu Giang, phân chia cho ông Ngô Văn Q2. Sau khi ông Q2 chết đến năm 2002 thì bà Lưu Thị Đ3 (vợ ông Q2) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 2003, bà Đ3 đã chuyển nhượng 04 công cho ông Dương Thanh H2. diện tích còn lại khoảng 09 công.
Bị đơn ông Đ1 có ý kiến phản bác như sau:
Đối với phần đất của ông H, bà Đ3 các đương sự có yêu cầu chia thừa kế thì ông không có ý kiến gì. Nhng phần đất kênh chống Mỹ 21 công, ông đã được cấp giấy và sử dụng ổn định, không ai tranh chấp, nên ông không đồng ý chia thừa kế. Tuy nhiên, nếu có căn cứ chia thừa kế ông đồng ý nhận giá trị kỷ phần tại các phần đất của ông H, bà Đ3 và ổn định đất cho ông H, bà Đ3 sử dụng; và yêu cầu xem xét công sức đóng góp của ông Đ1 trong giữ gìn, tôn tạo phần đất ông H đứng tên. Còn đối với phần đất tại Kênh chống Mỹ của ông nếu có căn cứ chia thừa kế, thì đồng ý trả giá trị cho các hàng thừa kế còn lại và nhận hiện vật đất để ổn định sử dụng.
Thứ hai, về tranh chấp quyền sở hữu nhà có ý kiến phản bác và phản tố như sau:
Năm 2012, ông Ngô Văn H được Ủy ban nhân dân thành phố V hỗ trợ việc xây cất nhà tình nghĩa số tiền 30.000.000 đồng. Do số tiền không đủ xây dựng nhà, nên ông và ông H bàn bạc với nhau ông H nhận số tiền 30.000.000 đồng từ nhà nước hỗ trợ và ông sẽ bỏ tiền thêm vào xây cất nhà chính (nhà tình nghĩa), vì lúc đó ông H chưa có vợ. Sau khi xây xong, năm 2013 ông H cưới vợ đi S, nhà chính gia đình ông Đ1 ở. Đến năm 2016 ông H và vợ bà T1 về kêu ngăn ra ở riêng, nên gia đình ông H ở bên căn nhà gỗ (cũ) và nhà chính này để gia đình ông ở ổn định đến nay. Trong quá trình ở, ông Đ1 đã xây dựng các phần nhà phụ, công trình liền kề nhà chính, khi xây dựng thì ông H cũng không có ngăn cản hay tranh chấp gì. Chỉ ngăn cản sau khi phát sinh tranh chấp.
Nay ông H khởi kiện yêu cầu đòi lại nhà tình nghĩa (nhà chính, vị trí 6) thì ông Đ1 không đồng ý, vì khi đó nguồn tiền hỗ trợ xây nhà của ông H chỉ có 30.000.000 đồng, số tiền còn lại là của ông bỏ ra xây dựng; ông H đã để gia đình ông ở ổn định và xây cất các công trình phụ khác gắn liền. Nay yêu cầu tháo dỡ các nhà phụ, công trình giao trả nhà chính là không đồng ý. Đồng thời, ông Đ1 có yêu cầu phản tố, yêu cầu công nhận cho ông Đ1 quyền sở hữu nhà chính này, ông sẽ giao trả số tiền hỗ trợ lại của ông H là 30.000.000 đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 42/2023/DS-ST ngày 29 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngô Văn H về tranh chấp thừa kế; chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngô Văn H về tranh chấp quyền sở hữu nhà.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ngô Thị Đ, Ngô Thị T, Ngô Thị Y về tranh chấp thừa kế.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Ngô Minh Đ1 về tranh chấp quyền sở hữu nhà.
1. Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà tại phần đất Sông C, cụ thể như sau:
1.1 Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất ông Ngô Văn H phần đất diện tích 1.334,9m2 (tại các vị trí II, IV, VI, VIII theo Mãnh trích đo địa chính số 274-2022 của Chi nhánh VP đăng ký đất đai thành phố V) 1.2 Buộc ông Ngô Văn H có nghĩa vụ giao giá trị kỷ phần lại cho các hàng thừa kế gồm: bà Ngô Thị Đ; Ngô Thị T; Ngô Thị Y; hàng thừa kế ông Ngô Văn Q2 gồm Lưu Thị Đ3 và các con Ngô Văn Hoàng N2, Ngô Văn B, Ngô Văn N3; mỗi người 01 kỷ phần tương đương số tiền 29.160.012 đồng.
1.3 Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất cho ông Ngô Minh Đ1 diện tích 1.419m2 (tại các vị trí I, III, V, VII theo Mãnh trích đo địa chính số 274- 2022 của Chi nhánh VP đăng ký đất đai thành phố V). Buộc ông Ngô Minh Đ1 có nghĩa vụ giao trả lại cho ông Ngô Văn H giá trị quyền sử dụng đất sau khi đã trừ 02 kỷ phần còn lại là 58.304.676 đồng.
1.4 Công nhận quyền sở hữu nhà chính cho ông Ngô Minh Đ1 (vị trí 6, theo Mãnh trích đo địa chính năm 2021 của Công ty TNHH Đ5). Buộc ông Ngô Minh Đ1 có nghĩa vụ giao trả số tiền hỗ trợ nhà tình nghĩa cho ông Ngô Văn H số tiền là 30.000.000 đồng.
2. Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất tại phần đất Kênh C Mỹ, cụ thể như sau:
2.1 Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất ông Ngô Minh Đ1 phần đất diện tích 20.417m2, thửa 319 (theo mãnh trích đo địa chính 56/TTKTTM-MT năm 2018).
2.2 Buộc ông Ngô Minh Đ1 có nghĩa vụ giao giá trị kỷ phần lại cho các hàng thừa kế gồm:
- Ông Ngô Văn H số tiền 255.215.000 đồng.
- Bà Ngô Thị Đ; Ngô Thị T; Ngô Thị Y; hàng thừa kế ông Ngô Văn Q2 gồm Lưu Thị Đ3 và các con Ngô Văn Hoàng N2, Ngô Văn B, Ngô Văn N3; mỗi người 01 kỷ phần tương đương số tiền 127.607.500 đồng.
3. Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất tại phần đất đường P, cụ thể như sau:
3.1 Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất cho các hàng thừa kế của ông Ngô Văn Q2 gồm bà Lưu Thị Đ3 và các con Ngô Văn Hoàng N2, Ngô Văn B, Ngô Văn N3 phần đất diện tích 12.199,6m2, thửa thửa 192, 200 (theo mảnh trích đo dị chính số 2018 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên môi trường tỉnh H).
3.2 Buộc bà Lưu Thị Đ3 và các con Ngô Văn Hoàng N2, Ngô Văn B, Ngô Văn N3 liên đới có nghĩa vụ giao giá trị kỷ phần lại cho các hàng thừa kế gồm: Ông Ngô Văn H; ông Ngô Minh Đ1; bà Ngô Thị Đ; bà Ngô Thị T; bà Ngô Thị Y, mỗi người 01 kỷ phần tương đương số tiền 93.711.200 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền được trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định khoản 2 Điều 468 của Bộ Luật dân sự.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/4/2023, ông Ngô Minh Đ1 kháng cáo yêu cầu giải quyết:
Không đồng ý chia thừa kế phần đất tranh chấp làm 03 phần đất của ông Ngô Minh Đ1, Ngô Văn H và bà Lưu Thị Đ3.
Yêu cầu ổn định sử dụng phần đất có 1.418m2 có nhà chính và các công trình trên đất, tọa lạc tại Sông C; Không đồng ý trả giá trị đất cho ông H vì trước đó ông H cho ở, không đồng ý trả số tiền hỗ trợ cho ông H 30.000.000 đồng vì ông Đ1 có công sức cải tạo, giữ gìn nhà và phần đất này.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự trình bày:
Phía đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến trình bày, thống nhất với bản án sơ thẩm.
Phía bị đơn vẫn yêu cầu kháng cáo và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của nguyên đơn.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn Ngô Văn H trình bày: Do thời hiệu yêu cầu chia thừa kế của nguyên đơn không còn, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của nguyên đơn. Đối với yêu cầu kháng cáo yêu cầu ổn định sử dụng phần đất có 1.418m2 có nhà chính và các công trình trên đất, tọa lạc tại Sông C; Không đồng ý trả giá trị đất cho ông H vì trước đó ông H cho ở, không đồng ý trả số tiền hỗ trợ cho ông H 30.000.000 đồng vì ông Đ1 có công sức cải tạo, giữ gìn nhà và phần đất này. Tại phiên tòa hôm nay đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn rút lại yêu cầu kháng cáo này và thống nhất với quyết định của bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phát biểu quan điểm: về tố tụng, từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, đương sự đã tiến hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Đình chỉ xét xử phúc thẩm của ông Ngô Minh Đ4 đối với kháng cáo về phần căn nhà tình nghĩa và phần đất diện tích 1.418m2 có nhà chính và các công trình trên đất, tọa lạc tại Sông C.
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cụ Ngô Văn D1 (chết năm 1970) và cụ Hồ Thị H3 (chết năm 1987) là cha mẹ của nguyên đơn và bị đơn. Cụ D1 và cụ H3 có tất cả 07 người con gồm có: Ông Ngô Văn H, ông Ngô Minh Đ1, bà Ngô Thị Đ, bà Ngô Thị Y, bà Ngô Thị T, ông Ngô Văn Q1 và bà Ngô Thị Kim Ú.
Lúc sinh thời cụ D1 và cụ H3 có tạo lập các phần đất sau: Phần đất 21 công tại (kênh C Mỹ), hiện nay do hộ ông Ngô Minh Đ1 đứng tên thửa 319 diện tích 20.417,2m2 và phần đất 2,4 công (Sông Cái L2) theo đo đạc thực tế là 2.754,0m2 thuộc các thửa 63,64,105; Phần đất 09 công (đường P) do bà Lưu Thị Đ3 (vợ ông Ngô Văn Q1) quản lý với diện tích 12.199,6m2 thuộc thửa 192, 200.
Cụ D1 và cụ H3 chết không để lại di chúc, vào năm 1990 ông Ngô Văn H đứng ra chia đất cho 03 người anh em trai gồm: Ông Ngô Văn H, ông Ngô Văn Q1 (đã chết) và ông Ngô Minh Đ1, các người con gái là Ngô Thị Đ, Ngô Thị Y, Ngô Thị T và Ngô Thị Kim Ú không được chia.
Sau khi phân chia ông Ngô Minh Đ1 sử dụng đất đến năm 2001 đi kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 21.451m2. Còn ông Ngô Văn Q1 sử dụng đất đến năm 1995 thì bệnh chết, vợ và các con ông Q1 tiếp tục canh tác đất. Đến ngày 23/4/2002 thì bà Lưu Thị Đ3 là vợ ông Q1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng với diện tích là 16.051m2, trong đó bà Đ3 chuyển nhượng cho ông Dương Thanh H2 3.869,5 m2, phần đất chuyển nhượng cho ông H2 thì các đương sự không có tranh chấp, nên không xem xét, giải quyết.
Đối với phần đất tại sông C, vào ngày 29/7/2002 ông H được Ủy ban nhân dân thị xã V cũ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích là 8.968 m2, trong phần đất này ông H cho bà Ngô Thị Kim Ú canh tác diện tích 5,6 công. Năm 2005 bà Ngô Thị Kim Ú khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất với ông H. Theo đó, bản án dân sự phúc thẩm số 71/2005/DS-PT ngày 16/5/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang đã tuyên xử ổn định cho bà Ú phần diện tích đất này. Nh vậy, phần diện tích còn lại là theo ông H là 2,4 công, đo đạc thực tế là 2.500,0m2 ông H đang quản lý sử dụng.
Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm bà Ú có ý kiến không yêu cầu chia thừa kế, vì đã được giải quyết nhận đất xong bằng bản án có hiệu lực pháp luật, nên cấp sơ thẩm không chia kỷ phần cho bà Ú.
Đối với phần đất tại kênh C Mỹ, thuộc ấp T, xã H, thành phố V diện tích 20.417,2 m2 do hộ ông Ngô Minh Đ1 đứng tên trên giấy, chia phần đất này làm 08 kỷ phần (trong đó ông H được 02 kỷ phần, ông Đ1 và vợ 02 kỷ phần); đối với phần đất tại đường P do bà Lưu Thị Đ3 đang quản lý và đứng tên trên giấy, diện tích đo đạc thực tế là 12.199,6 m2 chia phần đất này làm 07 kỷ phần (trong đó bà Đ3 và các con được 02 kỷ phần); phần đất tại sông C đo đạc thực tế 2.754,0 m2 do ông H đứng tên trên giấy chia làm 08 kỷ phần (trong đó ông H được 02 kỷ phần, ông Đ1 và vợ được 02 kỷ phần). Đối với các phần đất này ông Đ1 nhận toàn bộ hiện vật, có trách nhiệm giao lại giá trị cho các đồng thừa kế (trừ bà Ú không có yêu cầu chia).
Đối với phần căn trên phần đất 2.754,0 m2 nhà hiện nay ông Đ1 đang ở có một phần nhà chính là nhà tình nghĩa, ông H được Ủy ban nhân dân thành phố V hỗ trợ xây dựng với số tiền 30.000.000đ vì ông H là người có công với Nhà nước. Khi ông Đ1 về sống chung thì có cải tạo, sửa chữa, xây dựng thêm, có giá trị theo định giá là 277.327.760 đồng, cấp sơ thẩm giải quyết buộc ông Đ1 trả lại số tiền hỗ trợ xây dựng nhà tình nghĩa cho ông H là 30.000.000 đồng, ổn định phần đất cho ông Đ1, ông Đ1 trả giá trị cho các đồng thừa kế.
[2] Sau khi xét xử sơ thẩm, phía ông Ngô Văn H và các nguyên đơn khác, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về phía bị đơn ông Ngô Minh Đ1 kháng cáo như sau:
Thứ nhất: Ông Đ1 không đồng chia thừa kế cả 03 phần đất, cụ thể là phần đất tại kênh C Mỹ, phần đất tại đường P và phần đất tại Sông C.
Thứ hai: Đối với phần đất tại sông C có nhà chính và công trình trên đất, ông Đ1 yêu cầu tiếp tục sử dụng phần đất đo đạc thực tế là 1.418 m2, không đồng ý trả giá trị cho ông H, vì trước đây ông H cho ông ở. Đối với phần nhà chính (nhà tình nghĩa), ông Đ1 yêu cầu tiếp tục sử dụng và không đồng ý trả lại số tiền hỗ trợ cho ông H là 30.000.000 đồng, ông cho rằng có công sức cải tạo, gìn giữ nhà cũ và phần đất này.
Xét nội dung kháng cáo này của ông Ngô Minh Đ1, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các đương sự đều thừa nhận phần đất tranh chấp là của cụ D1 và cụ H3 tạo lập và để lại, cụ D1 và cụ H3 chết không để lại di chúc, nên di sản thừa kế phải được giải quyết chia theo quy định của pháp luật. Việc ông H tự chia đất cho ông H, ông Q1 và ông Đ1 nhưng chưa có sự đồng ý bằng văn bản của các đồng thừa kế, đồng thời việc chia đất cũng là do tự phân chia với nhau chứ không lập thành văn bản gì, nên về mặt pháp lý là chưa có cơ sở để công nhận. Mặc dù ông Đ1 có thời gian tương đối dài sử dụng đất (sử dụng đến thời điểm phát sinh tranh chấp năm 2017), nhưng chưa đủ thời gian xác lập quyền sử dụng đất theo thời hiệu là 30 năm. Đồng thời bà Lưu Thị Đ3 (vợ ông Ngô Văn Q1) là một trong những người được ông H đứng ra phân chia đất cũng thống nhất chia thừa kế đối với phần đất hiện nay bà Đ3 đang quản lý. Do đó, việc cấp sơ thẩm công nhận phần đất tranh chấp là di sản thừa kế và chia cho các đồng thừa kế là có căn cứ.
Đối với phần đất tại kênh C Mỹ, thuộc ấp T, xã H, thành phố V diện tích 20.417,2 m2 do hộ ông Ngô Minh Đ1 đứng tên trên giấy, chia phần đất này làm 08 kỷ phần (trong đó ông H được 02 kỷ phần, ông Đ1 và vợ 02 kỷ phần); đối với phần đất tại đường P do bà Lưu Thị Đ3 đang quản lý và đứng tên trên giấy, diện tích đo đạc thực tế là 12.199,6 m2 chia phần đất này làm 07 kỷ phần (trong đó bà Đ3 và các con được 02 kỷ phần); phần đất tại sông C đo đạc thực tế 2.754,0 m2 do ông H đứng tên trên giấy chia làm 08 kỷ phần (trong đó ông H được 02 kỷ phần, ông Đ1 và vợ được 02 kỷ phần). Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm các đồng thừa kế không yêu cầu phải được nhận bằng hiện vật, nên cấp sơ thẩm giải quyết ông Đ1 nhận toàn bộ hiện vật, có trách nhiệm giao lại giá trị cho các đồng thừa kế (trừ bà Ú không có yêu cầu chia) là có căn cứ.
Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của ông H cho rằng phần đất tranh chấp không phải là di sản thừa kế vì cụ D1 và cụ H3 không có các giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Tuy nhiên cho rằng phần đất tranh chấp hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế là có sự mâu thuẫn với trình bày của mình. Vấn đề thời hiệu yêu cầu chia thừa kế và phần đất tranh chấp có phải là di sản thừa kế hay không đã được Hội đồng xét xử nhận nhận định rõ tại Bản án dân sự phúc thẩm số 78/2020/DS-PT ngày 09/7/2020 của TAND tỉnh Hậu Giang. Do đó việc đại diện theo ủy quyền của bị đơn cho rằng phần đất các nguyên đơn yêu cầu chia không phải là di sản thừa kế là không có cơ sở để chấp nhận.
Dối với phần căn trên phần đất 1.419m2 nhà hiện nay ông Đ1 đang ở có một phần nhà chính là nhà tình nghĩa, ông H được Ủy ban nhân dân thành phố V hỗ trợ xây dựng với số tiền 30.000.000đ vì ông H là người có công với Nhà nước. Khi ông Đ1 về sống chung thì có cải tạo, sửa chữa, xây dựng thêm, có giá trị theo định giá là 277.327.760 đồng, cấp sơ thẩm giải quyết buộc ông Đ1 trả lại số tiền hỗ trợ xây dựng nhà tình nghĩa cho ông H là 30.000.000 đồng, ổn định phần đất cho ông Đ1, ông Đ1 trả giá trị cho các đồng thừa kế. Sau khi xét xử sơ thẩm ông H không kháng cáo yêu cầu giải quyết phần căn nhà và phần đất này nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Tại phiên tòa phúc thẩm bà Nguyễn Thị T1 là vợ ông Ngô Văn H yêu cầu xem xét giải quyết để ông H được ổn định phần đất và căn nhà tình nghĩa. Vì bà cho rằng bà không biết nên không kháng cáo phần này. Xét lời trình bày của bà T1 là không có căn cứ vì quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm ông H có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình, nên nhận thức quyền lợi của mình trong vụ án. Do đó việc bà T1 cho rằng không biết nên không kháng cáo và yêu cầu cấp phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm đề giải quyết lại là không có cơ sở.
Tại phiên tòa, phía đại diện theo ủy quyền của ông Ngô Minh Đ1 đồng ý rút lại yêu cầu kháng cáo phần căn nhà tình nghĩa và đồng ý trả giá trị phần đất cho ông H, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Từ những nhận định trên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Đ1.
[3] Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm. Nhng không đưa ra được căn cứ phải hủy bản án sơ thẩm. Quan điểm của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.
[4] Xét thấy đại diện theo ủy quyền của bị đơn không cung cấp chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ. Hội đồng xét xử chấp nhận theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân tỉnh Hậu Giang, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 3 Điều 284 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Điều 609, Điều 623, Điều 649, Điều 651 Bộ luật dân sự;
Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Ngô Minh Đ1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của ông Ngô Minh Đ1 về phần căn nhà tình nghĩa và phần đất diện tích 1.418 m2.
Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Ngô Văn H về tranh chấp thừa kế; chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngô Văn H về tranh chấp quyền sở hữu nhà.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ngô Thị Đ, Ngô Thị T, Ngô Thị Y về tranh chấp thừa kế.
- Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Ngô Minh Đ1 về tranh chấp quyền sở hữu nhà.
1. Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà tại phần đất Sông C, cụ thể như sau:
1.1 Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất ông Ngô Văn H phần đất diện tích 1.334,9m2 (tại các vị trí II, IV, VI, VIII theo Mãnh trích đo địa chính số 274-2022 của Chi nhánh VP đăng ký đất đai thành phố V) 1.2 Buộc ông Ngô Văn H có nghĩa vụ giao giá trị kỷ phần lại cho các hàng thừa kế gồm: bà Ngô Thị Đ; Ngô Thị T; Ngô Thị Y; hàng thừa kế ông Ngô Văn Q2 gồm Lưu Thị Đ3 và các con Ngô Văn Hoàng N2, Ngô Văn B, Ngô Văn N3; mỗi người 01 kỷ phần tương đương số tiền 29.160.012 đồng.
1.3 Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất cho ông Ngô Minh Đ1 diện tích 1.419m2 (tại các vị trí I, III, V VII theo Mãnh trích đo địa chính số 274- 2022 của Chi nhánh VP đăng ký đất đai thành phố V). Buộc ông Ngô Minh Đ1 có nghĩa vụ giao trả lại cho ông Ngô Văn H giá trị quyền sử dụng đất sau khi đã trừ 02 kỷ phần còn lại là 58.304.676 đồng.
1.4 Công nhận quyền sở hữu nhà chính cho ông Ngô Minh Đ1 (vị trí 6, theo Mãnh trích đo địa chính năm 2021 của Công ty TNHH Đ5). Buộc ông Ngô Minh Đ1 có nghĩa vụ giao trả số tiền hỗ trợ nhà tình nghĩa cho ông Ngô Văn H số tiền là 30.000.000 đồng.
2. Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất tại phần đất Kênh C Mỹ, cụ thể như sau:
2.1 Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất ông Ngô Minh Đ1 phần đất diện tích 20.417m2, thửa 319 (theo mãnh trích đo địa chính 56/TTKTTM-MT năm 2018).
2.2 Buộc ông Ngô Minh Đ1 có nghĩa vụ giao giá trị kỷ phần lại cho các hàng thừa kế gồm:
- Ông Ngô Văn H số tiền 255.215.000 đồng.
- Bà Ngô Thị Đ; Ngô Thị T; Ngô Thị Y; hàng thừa kế ông Ngô Văn Q2 gồm Lưu Thị Đ3 và các con Ngô Văn Hoàng N2, Ngô Văn B, Ngô Văn N3; mỗi người 01 kỷ phần tương đương số tiền 127.607.500 đồng.
3. Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất tại phần đất đường P, cụ thể như sau:
3.1 Chia thừa kế và công nhận quyền sử dụng đất cho các hàng thừa kế của ông Ngô Văn Q2 gồm bà Lưu Thị Đ3 và các con Ngô Văn Hoàng N2, Ngô Văn B, Ngô Văn N3 phần đất diện tích 12.199,6m2, thửa thửa 192, 200 (theo mãnh trích đo địa chính số 2018 của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên môi trường tỉnh H).
3.2 Buộc bà Lưu Thị Đ3 và các con Ngô Văn Hoàng N2, Ngô Văn B, Ngô Văn N3 liên đới có nghĩa vụ giao giá trị kỷ phần lại cho các hàng thừa kế gồm: Ông Ngô Văn H; ông Ngô Minh Đ1; bà Ngô Thị Đ; bà Ngô Thị T; bà Ngô Thị Y, mỗi người 01 kỷ phần tương đương số tiền 93.711.200 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với khoản tiền được trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định khoản 2 Điều 468 của Bộ Luật dân sự.
Về án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn Ngô Văn H, Ngô Thị Đ, Ngô Thị Y, Ngô Minh Đ1 là người cao tuổi, có đơn xi miễn án phí nên xem xét miễn theo quy định.
Ông Ngô Văn H được nhận lại tổng cộng 5.650.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai số 0010063 ngày 24/02/2017; 0014909 ngày 05/12/2017; 0017241 ngày 27/7/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang.
Bà Ngô Thị Đ được nhận tổng cộng 5.150.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai số 0010064 ngày 24/02/2017 và 0017242 ngày 27/7/2018 tại Cục thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang.
Bà Ngô Thị Y được nhận tổng cộng 5.150.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai số 0010066 ngày 24/02/2017 và 0017243 ngày 27/7/2018 tại Cục thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang.
Bị đơn ông Ngô Minh Đ1 được nhận lại 7.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0006215 ngày 14/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh Nguyên đơn bà Ngô Thị T phải chịu 12.523.900 đồng, được chuyển 5.150.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0010065 ngày 24/02/2017 và 0017244 ngày 27/7/2018 của Cục thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang. Bà T phải nộp thêm số tiền 7.373.900 đồng.
Bà Lưu Thị Đ3 và các con Ngô Văn Hoàng N2, Ngô Văn B, Ngô Văn N3 phải liên đới chịu án phí là 7.838.375 đồng.
Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Ngô Minh Đ1 được miễn nộp do người cao tuổi.
Về chi phí tố tụng: Tổng số tiền 40.631.189 đồng. Buộc ông Ngô Minh Đ1, bà Ngô Thị Đ, Ngô Thị T, Ngô Thị Y, bà Lưu Thị Đ3 và các con Ngô Văn Hoàng N2, Ngô Văn B, Ngô Văn N3 liên đới mỗi người chịu 6.726.864 đồng , nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, để giao trả cho ông Ngô Văn H.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, ngày 12/12/2023.
Bản án về tranh chấp thừa kế và tranh chấp quyền sở hữu nhà số 164/2023/DS-PT
Số hiệu: | 164/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về