Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 101/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 101/2023/DS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN, YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 28 tháng 9 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 25/2023/TLST-DS ngày 27 tháng 3 năm 2023 về việc: “Tranh chấp thừa kế tài sản; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2023/QĐXX-ST ngày 06 tháng 9 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 145/2023/QĐST-DS ngày 22 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà D Doc Vay Phan (Phạm Thị H); địa chỉ: Số 90 C England (Anh); có mặt.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Pham Thị HT; địa chỉ: Thôn 1, xã PL, huyện TN, thành phố Hải Phòng (Theo Giấy ủy quyền ngày 28/3/2023); có mặt.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị KA; địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng; có mặt;

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Bùi Quốc T – Luật sư Công ty Luật TNHH NT và Đồng nghiệp, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hải Phòng; có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Phạm Thị TN; địa chỉ: Số 184G CH, phường HN, quận LC, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Anh Phạm HH; địa chỉ: Số 184G CH, phường HN, quận LC, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Chị Pham Thị HT; địa chỉ: Thôn 1, xã PL, huyện TN, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bà Trương Thị L; địa chỉ: Thôn 1, xã PL, huyện TN, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Anh Phạm MN; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 01A/32/193 VC, KS, phường Đằng Lâm, quận HA, thành phố Hải Phòng; hiện cư trú tại Úc.

Người đại diện hợp pháp của anh Phạm MN: Chị Nguyễn PA; địa chỉ: Thôn Cổ Châu, xã N, huyện X, Hà Nội (theo Giấy ủy quyền số công chứng: SYD-23/GUQ/07.25/12, quyển số 07/2023 do Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Sydney – Úc chứng nhận ngày 25/7/2023); vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;

- Anh Phạm VH; địa chỉ: Số 11B ngõ 55 đường NĐC, quận LC, thành phố Hải Phòng; vắng mặt;

- Ủy ban nhân dân quận HA, thành phố Hải Phòng;

Người đại diện theo ủy quyền của UBND quận HA: Bà Bùi Thị KO, chức vụ: Viên chức Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận HA (theo Giấy ủy quyền số 1842/GUQ-UBND ngày 31-7-2023); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 3 năm 2023, đơn khởi kiện bổ sung và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn cũng như đại diện theo ủy quyền thống nhất trình bày:

Bố mẹ đẻ của bà là cụ Phạm Văn P, sinh năm 1930, chết năm 2008 và cụ Hà Thị T, sinh năm 1933, chết năm 2008.

Hai cụ sinh được 03 người con là: Phạm Văn H, sinh năm 1957, chết năm 2015; Phạm Thị H, sinh năm 1961 và Phạm Xuân H, sinh năm 1970, chết năm 2017; hai cụ không có con riêng, con nuôi.

Hai cụ chết để lại di sản là căn nhà 03 tầng, xây dựng trên diện tích đất 56,8m2 tại số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng; khi chết hai cụ không để lại di chúc.

Năm 2015, ông H tự ý sang tên toàn bộ nhà và đất của hai cụ mang tên mình. Ông H hiện đã chết, nhà đất do vợ ông là bà Nguyễn Thị KA cùng hai con đang quản lý, sử dụng.

Bà Phạm Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC561159 do Ủy ban nhân dân quận HA, thành phố Hải Phòng cấp cho ông Phạm Xuân H ngày 31/12/2015 đối với diện tích đất 56,8m2 tại thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17, địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng.

- Phân chia di sản của cụ Phạm Văn P và cụ Hà Thị T theo quy định pháp luật là quyền sử dụng thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17, diện tích 56,8m2 và tài sản trên đất là căn nhà 03 tầng tại địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là bà Nguyễn Thị KA trình bày:

Nhà và đất tại số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng là do hai vợ chồng bà bỏ toàn bộ tiền ra mua, xây dựng và sửa chữa lại. Do ông bà chung sống cùng bố mẹ chồng là cụ P và cụ T nên ông bà đồng ý để hai cụ đứng tên trên giấy tờ. Sau khi hai cụ mất, ông H và anh trai là ông H đã thống nhất để toàn bộ di sản mang tên hai cụ cho ông H đứng tên. Ông H từ chối, không nhận di sản từ hai cụ đối với nhà và đất này. Sau đó, hai ông đã làm thủ tục kê khai di sản và được UBND quận HA, thành phố Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mang tên ông H. Vợ chồng bà quản lý sử dụng từ trước đến nay. Năm 2017, ông H chết, sau đó bà và hai con chung vẫn tiếp tục sinh sống tại nhà đất này.

Bà Phạm Thị H bỏ nhà đi nhiều năm, bản thân bà không rõ thực sự mối quan hệ của bà H và gia đình như thế nào vì các cụ còn sống không thừa nhận có con là bà Phạm Thị H.

Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị H, bà không chấp nhận, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Phạm Thị Than Nhàn; chị Phạm Thị HT bà Trương Thị L đồng nhất quan điểm với nguyên đơn.

- Anh Phạm MN và anh Phạm VH đồng nhất quan điểm với bị đơn.

- Ủy ban nhân dân quận HA, thành phố Hải Phòng: Việc thực hiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Phạm Xuân H do nhận thừa kế của bố mẹ là cụ Phạm Văn P, Hà Thị T và được tặng cho một phần di sản thừa kế từ anh trai Phạm Văn H là đúng quy định.

Ngoài ra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác trong vụ án là anh Phạm HH: Đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng những người này đều vắng mặt và không có quan điểm gửi Tòa án liên quan đến nội dung vụ án.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: (Có bài phát biểu kèm theo) - Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tham tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa đã thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng.

- Nguyên đơn , bị đơn đã chấp hành đầy đủ quy định pháp luật tố tụng; một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ tố tụng.

- Về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC561159 do Ủy ban nhân dân quận HA, thành phố Hải Phòng cấp cho ông Phạm Xuân H ngày 31/12/2015 đối với diện tích đất 56,8m2 tại thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17, địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng.

+ Phân chia di sản của cụ T và cụ P để lại làm 04 suất thừa kế theo quy định pháp luật, trong đó có 01 phần công sức của vợ chồng ông Phạm Xuân H. Phần di sản của ông Phạm Văn H đã có văn bản từ chối nhận di sản và nhượng lại cho ông Phạm Xuân H nên cần ghi nhận ý chí tự nguyện của ông H. Đề nghị Hội đồng xét xử chia nhà đất tại: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng cho bà Nguyễn Thị KA và hai con là anh Phạm MN và anh Phạm VH quản lý, sử dụng. Bà Nguyễn Thị KA, anh Phạm MN và anh Phạm VH có nghĩa vụ thanh toán giá trị 01 suất thừa kế thừa kế cho bà Phạm Thị H.

+ Các đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần giá trị di sản được hưởng. Nguyên đơn được miễn án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Tranh chấp liên quan đến chia di sản thừa kế và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại khoản 5 Điều 26; Điều 34; khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; căn cứ Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[3] Về thời hiệu chia thừa kế: Cụ Phạm Văn P chết năm 2008, cụ Hà Thị T chết năm 2008. Vì vậy, thời hiệu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu chia di sản thừa kế còn trong thời hiệu khởi kiện.

[4] Tại phiên tòa, một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân quận HA và anh Phạm VH đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt; người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân quận HA và người đại diện theo ủy quyền của anh Phạm MN vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy sự vắng mặt của những người này không vì lý do bất khả kháng hay trở ngại khách quan nên căn cứ quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nêu trên trong vụ án.

- Về nội dung, xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[5] Về nguồn gốc, diễn biến quá trình quản lý, sử dụng đất.

[5.1] Theo tài liệu xác minh thể hiện: Nguồn gốc thửa đất tại thửa số 131, tờ bản đồ số 17 thuộc phường Đằng Lâm, quận HA, thành phố Hải Phòng được Ủy ban nhân dân quận HA cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cụ Phạm Xuân P và cụ Hà Thị T ngày 25/9/2007.

[5.2] Tài liệu do Văn phòng đăng ký đất đai, chi nhánh quận HA cung cấp: Năm 2008, ông Phạm Xuân P và bà Hà Thị T chết không để lại di chúc; ông Phạm Văn H cùng ông Phạm Xuân H (là con của cụ P và cụ T) đã lập văn bản khai nhận và thỏa thuận tặng cho di sản thừa kế tại Văn phòng Công chứng C. Theo Văn bản khai nhận và thỏa thuận tặng cho di sản thừa kế số 0609 do Văn phòng công chứng C chứng nhận ngày 13/5/2015, ông Phạm Văn H đã khai nhận và tặng cho lại phần di sản thừa kế của mình cho ông Phạm Xuân H. Ngày 22/5/2015, ông Phạm Xuân H đã được Ủy ban nhân dân quận HA cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BX 660443 đối với diện tích đất 56,8m2 tại thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17, địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng. Ngày 31/12/2015, Ủy ban nhân dân quận HA đã cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC561159 cho ông Phạm Xuân H đối với diện tích đất, tại thửa đất nêu trên, tại địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng; lý do cấp đổi là vì nhầm lẫn, sai sót địa chỉ thửa đất, điều chỉnh lại từ tổ dân phố An Khê 1 thành tổ dân phố KS.

[5.3] Do đó, có đủ căn cứ để xác định tài sản trên đất là căn nhà 03 tầng và diện tích đất 56,8m2 tại thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17, địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng là di sản của cụ Hà Thị T và cụ Phạm Xuân P. Do hai cụ chết không để lại di chúc nên di sản sẽ được phân chia theo quy định pháp luật.

[6] Xác định hàng thừa kế của cụ P và cụ T.

[6.1] Cụ Phạm Xuân P và cụ Hà Thị T sinh được 03 người con:

- Ông Phạm Văn H, sinh năm 1957, chết năm 2015. Ông H có vợ là bà Trương Thị L và 03 con là Phạm Thi TN, Phạm Văn Hiệp và Phạm Thị HT.

- Bà Phạm Thị H, sinh năm 1961 (Giấy khai sinh do Ủy ban hành chính xã Thái Thuần, huyện Thái Minh, tỉnh Thái Bình cấp ngày 01/3/1966; theo đó họ tên cha mẹ là Phạm Văn P và Hà Thị T). Do đó, đủ căn cứ xác định bà Phạm Thị H là con của cụ Phạm Xuân P và cụ Hà Thị T.

- Ông Phạm Xuân H, sinh năm 197, chết năm 2017. Ông H có vợ là bà Nguyễn Thị KA và 02 con chung là Phạm MN và anh Phạm VH.

[6.2] Căn cứ theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự, xác định những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ T và cụ P là: Ông Phạm Văn H, bà Phạm Thị H và ông Phạm Xuân H. Do ông H và ông H đã chết, đều chết sau cụ T và cụ P nên vợ con của ông H (bà Trương Thị L, chị Nhàn, anh Hiệp và chị Trâm) và vợ con của ông H (bà Nguyễn Thị KA, anh N và anh H) sẽ được hưởng phần di sản mà ông H và ông H được phân chia theo pháp luật.

[7] Về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mang tên ông Phạm Xuân H:

[7.1] Căn cứ tài liệu do Văn phòng đăng ký đất đai, chi nhánh quận HA cung cấp: Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với ông Phạm Xuân H dựa trên văn bản khai nhận và thỏa thuận tặng cho di sản thừa kế giữa ông Phạm Văn H và ông Phạm Xuân H. Văn bản này được lập ngày 13/5/2015 tại Văn phòng công chứng C thành phố Hải Phòng. Theo đó, ông H và ông H chỉ xác định những người thừa kế của cụ T và cụ P là hai ông, không có bà Phạm Thị H.

[7.2] Văn bản khai nhận và thỏa thuận tặng cho di sản thừa kế giữa ông Phạm Văn H và ông Phạm Xuân H xác định thiếu người thừa kế nên có căn cứ để xem xét chấp nhận hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đã cấp cho ông H và chia di sản theo quy định của pháp luật.

[7.3] Nội dung thỏa thuận trong văn bản liên quan đến việc từ chối nhận di sản của ông Phạm Văn H và ông Phạm Văn H tặng cho lại toàn bộ quyền hưởng di sản của ông H cho ông H. Xét việc ông Phạm Văn H tặng cho lại toàn bộ quyền hưởng di sản của ông H cho ông H là hoàn toàn tự nguyện, nên cần xem xét sự tự nguyện này của ông H để làm căn cứ giải quyết vụ án.

[8] Kết quả đo đạc, khảo sát:

[8.1] Theo kết quả khảo sát do Tòa án tiến hành: Tại thời điểm khảo sát diện tích đất thực tế: Tài sản trên đất gồm căn nhà 03 tầng xây trên toàn bộ diện tích đất 56,8m2 tại thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17 (địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng).

[8.2] Tổng giá trị nhà, đất là 2.123.809.000đ (Hai tỷ một trăm hai mươi ba triệu tám trăm linh chín nghìn đồng).

[9] Phân chia di sản của cụ T và cụ P:

[9.1] Hai cụ có 03 người con. Ngoài ra, vợ chồng ông H và bà Nguyễn Thị KA sinh sống cùng hai cụ từ thời điểm các cụ còn sống, đến nay bà Nguyễn Thị KA vẫn đang trực tiếp sinh sống, quản lý đối với nhà và đất nên cần tính thêm 01 phần công sức cho ông H cùng vợ là bà KA. Xác định phân chia di sản của cụ T và cụ P làm 04 suất thừa kế, trị giá mỗi suất thừa kế là 530.952.250 đồng.

[9.2] Qua khảo sát thực tế, do công trình xây dựng hết đất, diện tích đất không lớn nên phân chia bằng hiện vật sẽ không đảm bảo công năng sử dụng cũng như hiện trạng tài sản trên đất. Xét hiện nguyên đơn sinh sống tại nước ngoài; vợ và con của ông H đều có nơi ở ổn định khác; bà Nguyễn Thị KA cùng hai con đang ở tại nhà đất của cụ T và cụ P. Do đó, cần xét giao di sản cho bà Nguyễn Thị KA cùng hai con quản lý, sử dụng; bà Nguyễn Thị KA cùng hai con có trách nhiệm thanh toán lại giá trị cho các đồng thừa kế khác.

[9.3] Văn bản khai nhận và thỏa thuận tặng cho di sản thừa kế số 0609 do Văn phòng công chứng C chứng nhận ngày 13/5/2015, ông Phạm Văn H đã khai nhận và tặng cho lại phần di sản thừa kế của mình cho ông Phạm Xuân H.

[9.4] Tại Đơn xin sang tên quyền sử dụng đất do ông H viết ngày 01/01/2013, ông H trực tiếp viết và xác nhận vào đơn đồng ý cho ông H sang tên nhà đất nêu trên mang tên ông H; trong đơn còn có chữ ký xác nhận của vợ ông H là bà Trương Thị L. Người đại diện cho nguyên đơn đồng thời là con gái của ông H cũng xác nhận có nội dung này, bản chính Đơn xin sang tên quyền sử dụng đất nguyên đơn xác nhận đang lưu giữ, quản lý. Tuy nhiên, chị Trâm cho rằng đây chỉ là đơn viết để hoàn tất thủ tục hành chính còn bố chị là ông H không cho tặng lại phần di sản mình được hưởng cho ông H.

[9.5] Xét nội dung văn bản thỏa thuận không đề cập đến người thừa kế là bà Phạm Thị H là không đúng quy định nên cần xem xét phân chia lại di sản thừa kế. Tuy nhiên, tại Văn bản thỏa thuận và Đơn xin sang tên quyền sử dụng đất đều thể hiện ý chí tự nguyện của ông Huân đồng ý tặng lại di sản của mình cho ông H và để ông H đứng tên toàn bộ di sản. Do đó nên cần xác định phần di sản của ông H thì ông H là người được hưởng.

[10] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Cụ thể:

- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC561159 do Ủy ban nhân dân quận HA, thành phố Hải Phòng cấp cho ông Phạm Xuân H ngày 31/12/2015 đối với diện tích đất 56,8m2 tại thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17 (địa chỉ: Số 1A/32/193 phố phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng).

- Phân chia di sản thừa kế của cụ Hà Thị T và cụ Phạm Văn P (Phạm Văn P) làm 04 suất thừa kế, giá trị mỗi suất thừa kế = 2.123.809.000 đồng : 4 suất = 530.952.250 đồng.

+ Bà Phạm Thị H được hưởng 01 suất thừa kế tương đương số tiền là 530.952.250 đồng.

+ Bà Nguyễn Thị KA cùng hai con là anh Phạm MN và anh Phạm VH được hưởng 03 suất thừa kế (01 suất thừa kế của ông H; 01 suất thừa kế của ông Huân và 01 suất công sức quản lý di sản) tương đương với số tiền là 1.593.865.750 đồng.

+ Giao cho bà Nguyễn Thị KA cùng hai con là anh Phạm MN và anh Phạm VH được quyền quản lý, sử dụng chung nhà đất tại thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17 (địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng.

+ Bà Nguyễn Thị KA, anh Phạm MN và anh Phạm VH cùng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Phạm Thị H số tiền 530.952.250 đồng.

[11] Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ chi phí tố tụng, nguyên đơn đã nộp đủ nên không đặt ra vấn đề giải quyết.

[12] Về án phí:

[12.1] Các đương sự phải chịu án phí đối với phần giá trị di sản được hưởng;

[12.2] Nguyên đơn là người cao tuổi, xin miễn tiền tạm ứng án phí, án phí nên không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 5 Điều 26; Điều 34; khoản 1 Điều 37; Điều 228, Điều 147, 157, 164 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính;

- Căn cứ các Điều 609, 611, 612, 613, 614, 623, 649, 650 và 651 Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Căn cứ Điều 2 của Luật Người cao tuổi,

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị H:

- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CC561159 do Ủy ban nhân dân quận HA, thành phố Hải Phòng cấp cho ông Phạm Xuân H ngày 31/12/2015 đối với diện tích đất 56,8m2 tại thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17, địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng.

- Phân chia di sản thừa kế của cụ Phạm Xuân P (tên khác là Phạm Văn P) và cụ Hà Thị T là tài sản trên đất gồm căn nhà 03 tầng và quyền sử dụng diện tích đất 56,8m2 tại thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17 (địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng) làm 04 suất thừa kế, giá trị mỗi suất thừa kế = 2.123.809.000 đồng : 4 = 530.952.250 đồng.

+ Bà Phạm Thị H được hưởng 01 suất thừa kế tương đương với số tiền là 530.952.250 đồng.

+ Bà Nguyễn Thị KA, anh Phạm MN và anh Phạm VH được hưởng 03 suất thừa kế (01 suất thừa kế của ông H; 01 suất thừa kế của ông Huân và 01 suất là công sức) tương đương với số tiền là 1.593.865.750 đồng.

+ Chia cho bà Nguyễn Thị KA, anh Phạm MN và anh Phạm VH được quyền quản lý, sử dụng chung căn nhà 03 tầng và quyền sử dụng diện tích đất 56,8m2 tại thửa đất số 131, tờ bản đồ số 17, địa chỉ: Số 1A/32/193 phố VC, phường ĐL, quận HA, thành phố Hải Phòng.

Bà Nguyễn Thị KA, anh Phạm MN và anh Phạm VH có trách nhiệm đến cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của pháp luật.

+ Bà Nguyễn Thị KA, anh Phạm MN và anh Phạm VH có nghĩa vụ chung thanh toán cho bà Phạm Thị H số tiền 530.952.250đ (Năm trăm ba mươi triệu, chín trăm năm mươi hai nghìn, hai trăm năm mươi đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong nếu bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa thi hành xong số tiền trên thì hàng tháng bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

2. Về án phí:

- Nguyên đơn được miễn án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

- Bà Nguyễn Thị Nguyễn Thị KA, anh Phạm MN và anh Phạm VH mỗi người phải chịu 19.938.657đ (Mười chín triệu, chín trăm ba mươi tám nghìn, sáu trăm năm mươi bảy đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo:

- Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án theo quy định pháp luật.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định pháp luật.

- Anh Phạm MN có quyền kháng cáo trong thời hạn 30 (Ba mươi) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định pháp luật.

4. Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 101/2023/DS-ST

Số hiệu:101/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về