Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản số 35/2024/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH        

BẢN ÁN 35/2024/DS-PT NGÀY 01/02/2024 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 119/2023/TLPT-DS ngày 20 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp thừa kế về tài sản.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 17/2023/DS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 05/2024/QĐ-PT ngày 03 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1. Ông Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1950; địa chỉ: Tổ G K, phường T, Tp ., tỉnh Đắk Lắk (có mặt).

2. Bà Phạm Thị N, sinh năm 1949; địa chỉ: Thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định (có mặt).

Người đại diện hợp pháp của ông C, bà N: Bà Phan Thị L, sinh năm 1963; địa chỉ: B P, Tp ., tỉnh Đắk Lắk (Theo các văn bản ủy quyền ngày 03/02/2023, ngày 06/02/2023)(có mặt).

Bị đơn: Bà Trần Thị Bích H, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phạm Phúc V, sinh năm 1979; địa chỉ: P Khu C; số F đường Đ, phường P, quận I, TP . (vắng mặt).

2. Ông Phạm Thanh T, sinh năm 1983; địa chỉ: Khu C, đường số D, phường T, Tp TP . (vắng mặt).

3. Ông Phạm Tấn L1, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của Ông V, ông T và ông L1: Ông Trần Huy T1, sinh năm: 1974; địa chỉ: E L, Tổ A, KV2, P. N, Tp ., tỉnh Bình Định. (Theo các văn bản ủy quyền ngày 25/5/2023) (có mặt)

4. Bà Phạm Thị Hoàng O, sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ E khu phố F phường N, Tp ., Bình Định, (có mặt) Người kháng cáo: Ông Nguyễn Ngọc C là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ghi ngày 18/7/2022 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn Ông Nguyễn Ngọc C, bà Phạm Thị N ủy quyền cho bà Phan Thị L trình bày:

Cụ Phạm Ngọc X (chết ngày 19/8/2003) và cụ Võ Thị D (chết ngày 25/9/2007) là vợ chồng. Vợ chồng cụ D có 03 người con chung là: Bà Phạm Thị N; ông Nguyễn Ngọc C; ông Phạm Thanh B. Tài sản thừa kế vợ chồng cụ X, cụ D để lại gồm: Ngôi nhà có diện tích xây dựng khoảng 150m2 gắn liền với thửa đất số hiệu 322, tờ bản đồ số 05, diện tích 390m2 (trong đó có 200m2 đất ở và 190m2 đất vườn). Ngoài ngôi nhà gắn liền với thửa đất nêu trên, vợ chồng cụ X, cụ D còn để lại tài sản là quyền sử dụng đất sản xuất gồm: Thửa đất số hiệu 207B, diện tích 612m2; thửa số 208C, diện tích 1.367m2; thửa số 701, diện tích 800m2 (các thửa đất này thuộc tờ bản đồ số 4); thửa 256, diện tích 920m2; thửa 135, diện tích 720m2; thửa 203, diện tích 590m2 và thửa 201, diện tích 200m2 (các thửa đất này thuộc tờ bản đồ số 5). Toàn bộ các loại tài sản nêu trên tọa lạc thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định đã được UBND huyện P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1996; số vào sổ cấp GCN: 726/QSDĐ/E18 ngày 20/6/1996.

Vợ chồng cụ X, cụ D chết không để lại di chúc. Sau khi vợ chồng cụ X, cụ D chết, toàn bộ tài sản thừa kế của vợ chồng cụ X do bà Trần Thị Bích H quản lý, sử dụng. Quá trình quản lý, sử dụng, bà H có sửa chữa, tôn tạo lại ngôi nhà của vợ chồng cụ X và không đồng ý chia thừa kế nên nội bộ trong gia đình phát sinh tranh chấp.

Nay bà Phạm Thị N, ông Nguyễn Ngọc C khởi kiện bà Trần Thị Bích H yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế tài sản của vợ chồng cụ X, cụ D theo pháp luật. Bà N và ông C xin nhận suất thừa kế mà mình được hưởng bằng quyền sử dụng đất.

Cách chia: Vì ngôi nhà của vợ chồng cụ X xây dựng từ năm 1982 nên giá trị sử dụng không còn. Do vậy, bà N, ông C không yêu cầu chia giá trị xây dựng ngôi nhà, vật kiến trúc, cây cối trên đất mà chỉ yêu cầu Tòa án chia thừa kế quyền sử dụng đất. Ông Nguyễn Ngọc C là con trai trưởng của vợ chồng cụ X, hiện đang đăng ký nơi cư trú tại Tp ., tỉnh Đắk Lắk, nhưng không có nhà ở nên ông C xin nhận toàn bộ thửa đất số 322, tờ bản đồ số 05 diện tích 390m2 (trong đó có 200m2 đất ở và 190m2 đất vườn) gắn liền với ngôi nhà của vợ chồng cụ X với giá trị quyền sử dụng đất theo ông C xác định là 2.000.000.000 đồng (tương ứng giá đất ở là 7.000.000 đồng/m2; giá đất vườn 3.000.000 đồng/m2). Ông c và bà N đồng ý trích từ di sản thừa kế của vợ chồng cụ X để tính công sức của bà H đã bảo quản, giữ gìn, tôn tạo di sản thừa kế của vợ chồng cụ X là 146.000.000 đồng. Như vậy, phần tài sản thừa kế của vợ chồng cụ X, cụ D còn lại là 1.854.000.000 đồng chia đều cho 03 suất thừa kế theo pháp luật. Ông C xin nhận toàn bộ ngôi nhà, thửa đất nêu trên và sẽ hoàn lại giá trị các suất thừa kế bằng tiền.

Đối với các thửa đất trồng lúa thì ông C, bà N yêu cầu chia bằng quyền sử dụng đất để ông C và bà N có đất sản xuất.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai ngày 02/11/2022 và các lời khai tiếp theo, bị đơn Trần Thị Bích H trình bày:

Bà là vợ ông Phạm Thanh B (chết năm 1994), là con dâu của vợ chồng cụ Phạm Ngọc X và cụ Võ Thị D. Bà thống nhất với lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của ông C, bà N về quan hệ huyết thống của vợ chồng cụ X, cụ D cũng như thời điểm mở thừa kế và những người thuộc diện hàng thừa kế thứ nhất của vợ chồng cụ X, cụ D.

Giữa bà và ông B có 03 người con chung gồm: Anh Phạm Thanh T, chị Phạm Thị Hoàng O và anh Phạm Tấn L1.

Hộ gia đình cụ X là hộ gia đình nông nghiệp, được Nhà nước cân đối giao quyền sử dụng đất sản xuất để sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Ngày 20/6/1996, UBND huyện P cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình cụ X; số vào sổ cấp GCN: 726/QSDD/E18. Do có sự tranh chấp về quyền thừa kế nên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên hiện nay ông C đang cất giữ. Thời điểm Nhà nước cân đối giao quyền sử dụng đất thì hộ gia đình cụ X có 08 nhân khẩu gồm: Vợ chồng cụ X, cụ D, chồng bà là ông Phạm Thanh B, anh Phạm Phúc V (con một của ông C, nhưng được vợ chồng cụ X và vợ chồng bà nuôi dưỡng từ nhỏ), anh Phạm Thanh T, chị Phạm Thị Hoàng O, anh Phạm Tấn L1 và bà là Tran Thị Bích H.

Vợ chồng cụ X, cụ D chết không để lại di chúc nên nay ông C, bà N khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật đối với tài sản của vợ chồng cụ X, cụ D thì bà chấp nhận. Tuy nhiên, trước khi chia thừa kế quyền sử dụng đất là di sản thừa kế của vợ chồng cụ X để lại thì bà yêu cầu chia quyền sử dụng đất cho 08 định suất của hộ gia đình. Sau khi chia định suất và xác định được tài sản của vợ chồng cụ X để lại thì bà yêu cầu trích 01 suất thừa kế giao cho bà được thừa hưởng, vì bà là người có công giữ gìn, bảo quản và tôn tạo di sản thừa kế sau khi vợ chồng cụ X qua đời. Phần còn lại bà đồng ý chia thừa kế theo pháp luật.

Đối với quyền sử dụng đất sản xuất và suất thừa kế thế vị của ông B thì bà và các con của bà cũng như anh V (con ông C) đã bàn bạc, thống nhất yêu cầu Tòa án giao cho bà được trọn quyền sở hữu, sử dụng. Bởi vì anh T, anh L1, chị O và anh V đã tự nguyện nhường lại quyền lợi hợp pháp của họ cho bà thừa hưởng.

Bà không đồng ý với yêu cầu của ông C, bà N giao ngôi nhà gắn liền với thửa đất số 322, tờ bản đồ số 05, diện tích 390m2 của vợ chồng cụ X cho ông C theo giá trị ông C đề xuất. Bởi vì hiện nay ông C có nhiều bất động sản tại tỉnh Đắk Lắk, còn bà thì không có nhà ở. Mặt khác, thửa đất nêu trên ngoài 200m2 đất ở còn có 190m2 vườn giao cho 08 định suất của hộ gia đình cụ X. Các thành viên trong hộ gia đình cụ X hiện nay còn sống đều thống nhất giao cho bà được trọn quyền sử dụng. Vì vậy, bà yêu cầu được nhận toàn bộ ngôi nhà gắn liền thửa đất nêu trên và có nghĩa vụ hoàn lại giá trị suất thừa kế của ông C và bà N. Riêng các thửa đất trồng lúa thì bà yêu cầu chia cho ông C và bà N bằng quyền sử dụng đất. Nếu ông C cho rằng, giá trị đất theo biên bản định giá ngày 21/7/2023 là thấp thì ông C có quyền yêu cầu Tòa án định giá lại.

Tại bản tự khai ngày 03 tháng 3 năm 2023 và các lời khai tiếp theo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thị Hoàng O trình bày:

Bà là con của ông Phạm Thanh B (chết năm 1994) và bà Trần Thị Bích H. Bà thống nhất toàn bộ lời trình bày của bà H đã nêu trên và cách giải quyết chia quyền sử dụng đất, chia thừa kế tài sản của vợ chồng cụ X để lại nên không trình bày bổ sung gì thêm. Phần quyền lợi của bà được chia quyền sử dụng đất và quyền thừa kế thế vị thì bà tự nguyện tặng cho lại cho bà H được trọn quyền sở hữu, sử dụng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Phúc V, ông Phạm Thanh T, ông Phạm Tấn L1 ủy quyền cho ông Trần Huy T1 trình bày:

Với tư cách là người đại diện theo ủy quyền của ông V, ông T1 và ông L1, ông thống nhất toàn bộ lời trình bày và cách giải quyết vụ án của bị đơn bà Trần Thị Bích H đã trình bày. Quyền lợi của ông V, ông T1, ông L1 được chia quyền sử dụng đất sản xuất và suất thừa kế thế vị mà ông T1, ông L1 được hưởng từ di sản của cụ X, cụ D thì ông V, ông T1, ông L1 tặng cho lại cho bà H nên yêu cầu Tòa án giao cho bà H được trọn quyền sở hữu, sử dụng.

Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2023/DS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị N, ông Nguyễn Ngọc C về việc phân chia thừa kế tài sản của vợ chồng cụ Phạm Ngọc X và cụ Võ Thị D.

1.1. Chia, giao cho bà Trần Thị Bích H được trọn quyền sở hữu, sử dụng toàn bộ ngôi nhà có tổng diện tích xây dựng 154m2 (nhà chính: 118,9m2 + nhà phụ: 35,1m2), các vật kiến trúc khác, cây cối gắn liền với thửa đất số hiệu 72, tờ bản đồ 35 - Vlap, diện tích 390m2 (trong đó có 200m2 đất ở, 190m2 đất vườn) và các thửa đất trồng lúa có tổng diện tích 4.930,6m2 tại thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định. Cụ thể:

- Thửa đất số hiệu 174 tờ bản đồ 12 - Vlap, diện tích 725,6m2;

- Thửa đất số hiệu 161 tờ bản đồ số 12 - Vlap, diện tích 683,1m2;

- Thửa đất số hiệu 256, tờ bản đồ số 5 - V, diện tích 993,8m2;

- Thửa đất số hiệu 133 tờ bản đồ số 12 - Vlap, diện tích 693,2m2;

- Thửa đất số hiệu 35, tờ bản đồ số 11 - V, diện tích 610,4m2;

- Thửa đất số hiệu 38, tờ bản đồ số 7 - V, diện tích 1.225m2.

Sau khi bà H có nghĩa vụ hoàn lại giá trị các suất thừa kế cho bà Phạm Thị N và ông Nguyễn Ngọc C.

1.2. Buộc bà Trần Thị Bích H phải có nghĩa vụ hoàn lại giá trị các suất thừa kế cho bà Phạm Thị N, ông Nguyễn Ngọc C mỗi người được nhận 274.319.333 đồng để được trọn quyền sở hữu, sử dụng các tài sản cụ thể nêu trên.

1.3. Bà Phạm Thị N và ông Nguyễn Ngọc C mỗi người được nhận thừa kế tài sản của vợ chồng cụ Phạm Ngọc X, cụ Võ Thị D, tổng cộng là 274.319.333 đồng (102.869.750 đồng + 171.449.583 đồng) do bà Trần Thị Bích H có nghĩa vụ hoàn lại giá trị bằng tiền.

1.4. Buộc ông Nguyễn Ngọc C phải giao lại cho bà Trần Thị Bích H bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện P, tỉnh Bình Định cấp cho hộ gia đình cụ Phạm Ngọc X vào ngày 20/6/1996; số vào sổ cấp GCN: 726/QSDĐ/E18.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của các bên đương sự.

Ngày 21 tháng 9 năm 2023, nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C có đơn kháng cáo yêu cầu được nhận di sản thừa kế là hiện vật và yêu cầu định giá lại giá trị tài sản.

Ngày 02 tháng 11 năm 2023, nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C có đơn kháng cáo bổ sung yêu cầu được nhận 01 thửa đất trồng lúa trong di sản của cha mẹ ông để lại và thanh toán giá trị chênh lệch cho các đồng thừa kế khác. Không đồng ý giao toàn bộ diện tích đất trồng lúa cho bị đơn như bản án sơ thẩm đã tuyên.

Tại phiên Tòa phúc thẩm nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và giữ nguyên kháng cáo với nội dung như trên.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Trong quá trình tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị HĐXX không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn; sửa phần án phí của Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Ngày 02/11/2023, nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C có đơn kháng cáo bổ sung yêu cầu nhận hiện vật đối với kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng của cụ Phạm Ngọc X và cụ Võ Thị D là 01 thửa đất lúa. Hội đồng xét xử thấy rằng yêu cầu kháng cáo bổ sung của ông C không vượt quá phạm vi kháng cáo theo đơn kháng cáo ngày 21/9/2023 nên được chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 298 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2] Đối với yêu cầu kháng cáo của ông C yêu cầu định giá lại tài sản chia thừa kế vì cho rằng giá trị tài sản đang tranh chấp tại biên bản định giá ngày 21/7/2023 của Tòa án cấp sơ thẩm là thấp, không đúng với giá thị trường. Theo yêu cầu của ông C, Tòa án cấp phúc thẩm đã ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Tại biên bản định giá ngày 09/11/2023, Hội đồng định giá đã định giá tài sản đang tranh chấp đã thực hiện đúng theo điểm c khoản 4 Điều 105 Bộ luật tố tụng dân sự. Kết quả giá trị tài sản tại biên bản định giá ngày 09/11/2023 không thay đổi so với giá trị tài sản do Hội đồng định giá ngày 21/7/2023 đã định. Ông C cho rằng tài sản đang tranh chấp có giá trên 2.000.000.000đồng nhưng giá ông cung cấp không được bà bị đơn H và những người liên quan trong vụ án đồng ý nên HĐXX không chấp nhận giá trị tài sản của ông C đưa ra.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo về nội dung vụ án của nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2.1] Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều thống nhất về quan hệ gia đình, hàng thừa kế và di sản của cụ Phạm Ngọc X, cụ Võ Thị D để lại gồm: Nhà có tổng diện tích xây dựng 154m2 (nhà chính: 118,9m2 + nhà phụ: 35,1m2), các vật kiến trúc khác, cây cối gắn liền với thửa đất số hiệu 72, tờ bản đồ 35 - Vlap, diện tích 390m2 (trong đó có 200m2 đất ở, 190m2 đất vườn) và các thửa đất trồng lúa có tổng diện tích 4.930,6m2 tại thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định. Cụ thể:

- Thửa đất số hiệu 174 tờ bản đồ 12 - Vlap, diện tích 725,6m2;

- Thửa đất số hiệu 161 tờ bản đồ số 12 - Vlap, diện tích 683,1m2;

- Thửa đất số hiệu 256, tờ bản đồ số 5 - V, diện tích 993,8m2;

- Thửa đất số hiệu 133 tờ bản đồ số 12 - Vlap, diện tích 693,2m2;

- Thửa đất số hiệu 35, tờ bản đồ số 11 - V, diện tích 610,4m2;

- Thửa đất số hiệu 38, tờ bản đồ số 7 - V, diện tích 1.225m2.

Cụ X, cụ D chết không để lại di chúc. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia thừa kế theo pháp luật đối với các di sản nêu trên của cụ X, cụ D là có căn cứ, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2015.

[2.21 Tuy nhiên, sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử xong, nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C kháng cáo không đồng ý nhận giá trị kỷ phần thừa kế và xin nhận hiện vật. Hội đồng xét xử thấy rằng:

Sau khi vợ chồng cụ X qua đời, bà N, ông C đều thừa nhận vợ chồng bà Trần Thị Bích H là người quản lý, sử dụng di sản và có công bảo quản, tôn tạo và giữ gìn di sản thừa kế. Mặt khác, theo Công văn số 76/UBND-ĐC ngày 16/5/2023 của Ủy ban nhân dân xã C xác nhận hộ cụ Phạm Ngọc X được UBND huyện P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghị định 64/NĐ-CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ, các nhân khẩu được cân đối giao quyền sử dụng đất trong hộ cụ Phạm Ngọc X đối với toàn bộ các di sản nêu trên gồm: Cụ Phạm Ngọc X, cụ Võ Thị D, ông Phạm Thanh B, bà Trần Thị Bích H, ông Phạm Phúc V, ông Phạm Thanh T, bà Phạm Thị Hoàng O và ông Phạm Tấn L1 không có tên ông Nguyễn Ngọc C.

Căn cứ vào biên bản xác minh ngày 03/8/2023 tại UBND xã C, huyện P thì tất cả các thửa đất nói trên của hộ gia đình cụ X đều nằm trong diện điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Nhơn Hội theo Quyết định số 514/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh B, Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh B, Ban quản lý khu kinh tế tỉnh B (BL: 98 - 104. HS) và cũng không đủ điều kiện để tách thửa theo quyết định số 40/2014/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 của UBND tỉnh B. Mặc khác, ông C sinh sống và làm việc tại tỉnh Đắk Lắk, không sinh sống tại thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên chia, giao cho bà Trần Thị Bích H được trọn quyền sở hữu, sử dụng toàn bộ ngôi nhà có tổng diện tích xây dựng 154m2 (nhà chính: 118,9m2 + nhà phụ: 35,1m2), các vật kiến trúc khác, cây cối gắn liền với thửa đất số hiệu 72, tờ bản đồ 35 - Vlap, diện tích 390m2 (trong đó có 200m2 đất ở, 190m2 đất vườn) cùng các thửa đất trồng lúa có tổng diện tích 4.930,6m2 tại thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định, cụ thể là:

- Thửa đất số hiệu 174 tờ bản đồ 12 - Vlap, diện tích 725,6m2;

- Thửa đất số hiệu 161 tờ bản đồ số 12 - Vlap, diện tích 683,1m2;

- Thửa đất số hiệu 256, tờ bản đồ số 5 - V, diện tích 993,8m2;

- Thửa đất số hiệu 133 tờ bản đồ số 12 - Vlap, diện tích 693,2m2;

- Thửa đất số hiệu 35, tờ bản đồ số 11 - V, diện tích 610,4m2;

- Thửa đất số hiệu 38, tờ bản đồ số 7 - V, diện tích 1.225m2.

là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật và tình hình thực tế tại địa phương.

[2.3] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm không tính tiền án phí tài sản mà bà Trần Thị Bích H được nhận phần tài sản của anh Phạm Phúc V. Do vậy, Hội đồng xét xử sửa phần án phí sơ thẩm.

[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, ông Nguyễn Ngọc C được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

[6] Về chi phí tố tụng tại cấp phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc C không được HĐXX chấp nhận nên ông C phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá lại là 5.000.000đồng. Ông C đã nộp xong.

[7] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C, sửa bản án sơ thẩm về phần án phí là phù hợp với nhận định của Tòa.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 219, 609, 611, 612, 613, 649, 650, 651, 652, khoản 3 Điều 658 của Bộ luật dân sự 2015.

Căn cứ khoản 1,3 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa XIV.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc C. Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2023/DS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định về phần án phí.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị N, ông Nguyễn Ngọc C về việc phân chia thừa kế tài sản của vợ chồng cụ Phạm Ngọc X và cụ Võ Thị D.

2.1. Chia, giao cho bà Trần Thị Bích H được trọn quyền sở hữu, sử dụng thửa đất số hiệu 72, tờ bản đồ 35 - Vlap, diện tích 390m2 (trong đó có 200m2 đất ở, 190m2 đất vườn) cùng toàn bộ ngôi nhà gắn liền trên thửa đất có tổng diện tích xây dựng 154m2 (nhà chính: 118,9m2 + nhà phụ: 35,1m2), các vật kiến trúc khác, cây cối trên đất và các thửa đất trồng lúa có tổng diện tích 4.930,6m2 tại thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định, cụ thể:

- Thửa đất số hiệu 174 tờ bản đồ 12 - Vlap, diện tích 725,6m2;

- Thửa đất số hiệu 161 tờ bản đồ số 12 - Vlap, diện tích 683,1m2;

- Thửa đất số hiệu 256, tờ bản đồ số 5 - V, diện tích 993,8m2;

- Thửa đất số hiệu 133 tờ bản đồ số 12 - Vlap, diện tích 693,2m2;

- Thửa đất số hiệu 35, tờ bản đồ số 11 - V, diện tích 610,4m2;

- Thửa đất số hiệu 38, tờ bản đồ số 7 - V, diện tích 1.225m2.

2.2. Buộc bà Trần Thị Bích H phải có nghĩa vụ hoàn lại giá trị các kỷ phần thừa kế cho bà Phạm Thị N, ông Nguyễn Ngọc C mỗi người được nhận 274.319.333 đồng (hai trăm bảy mươi bốn triệu ba trăm mười chín nghìn ba trăm ba mươi ba đồng).

2.3. Buộc ông Nguyễn Ngọc C phải giao lại cho bà Trần Thị Bích H bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện P, tỉnh Bình Định cấp cho hộ gia đình cụ Phạm Ngọc X vào ngày 20/6/1996; số vào sổ cấp GCN: 726/QSDĐ/E18.

3. Về án phí và chi phí tố tụng khác:

3.1. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị N, ông Nguyễn Ngọc C được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm. Bà Trần Thị Bích H phải chịu 28.489.413 đồng (hai mươi tám triệu bốn trăm tám mươi chín nghìn bốn trăm mươi ba đồng).

3.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Ngọc C được miễn.

3.3. Các chi phí tố tụng khác:

- Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tại cấp sơ thẩm là 10.250.000đồng (mười triệu hai trăm năm chục nghìn đồng). Bà Phạm Thị N phải chịu 2.562.500 đồng (hai triệu năm trăm sáu mươi hai nghìn năm trăm đồng); Ông Nguyễn Ngọc C phải chịu 2.562.500 đồng (hai triệu năm trăm sáu mươi hai nghìn năm trăm đồng); bà Trần Thị Bích H phải chịu 5.125.000 đồng (năm triệu một trăm hai mươi lăm nghìn đồng).

Bà Phạm Thị N đã nộp tạm ứng toàn bộ chi phí nêu trên nên ông Nguyễn Ngọc C phải hoàn trả lại cho bà Phạm Thị N 2.562.500 đồng, bà Trần Thị Bích H phải hoàn trả lại cho bà Phạm Thị N 5.125.000 đồng.

- Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tại cấp phúc thẩm là 5.000.000đồng (năm triệu đồng). Ông Nguyễn Ngọc C phải chịu và ông C đã nộp xong.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kề từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Quyền và nghĩa vụ thi hành án:

5.1. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

5.2. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản số 35/2024/DS-PT

Số hiệu:35/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Định
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về