Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản số 29/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 29/2023/DS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2023, tại phòng xử án, Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 27/2023/TLST-DS ngày 25 tháng 5 năm 2023 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2023/QDXXST-DS ngày 15 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Hồ Công H, sinh năm 1972, địa chỉ: Tổ 46, khu phố V, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Anh Hồ Ngọc Đ, sinh năm 1984, địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

- Bị đơn: Ông Hồ Văn V, sinh năm 1958. Địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Hồ Thị L, địa chỉ: Thôn L2, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt, Ủy quyền cho anh Hồ Ngọc Đ tham gia tố tụng tại Tòa án.

+ Bà Hồ Thị L1, sinh năm 1954, địa chỉ: Ấp V, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt, ủy quyền cho anh Hồ Ngọc Đ tham gia tố tụng tại Tòa án.

+ Anh Hồ Ngọc Đ, sinh năm 1984, địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt + Chị Hồ Thị Thu H1, sinh năm 1987, địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. vắng mặt, ủy quyền cho anh Hồ Ngọc Đ tham gia tố tụng tại Tòa án.

+ Cháu Hồ Thị Mỹ H2, sinh năm 1991, địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện , tỉnh Quảng Bình, vắng mặt, ủy quyền cho anh Hồ Ngọc Đ tham gia tố tụng tại Tòa án.

+ Bà Trần Thị P, sinh năm 1966, địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt, ủy quyền cho anh Hồ Ngọc Đ tham gia tố tụng tại Tòa án.

+ Anh Hồ Công T, sinh năm 1992, địa chỉ: Thôn Thu Thừ, xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. vắng mặt, ủy quyền cho anh Hồ Ngọc Đức tham gia tố tụng tại Tòa án.

+ Anh Hồ Công Q, sinh năm 1997, địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt, ủy quyền cho anh Hồ Ngọc Đ tham gia tố tụng tại Tòa án.

+ Ông Hồ Công V, sinh năm 1964, địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt

+ Ông Hồ Công H3, sinh năm 1969, địa chỉ: Ấp V, phường P, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt, ủy quyền cho anh Hồ Ngọc Đ tham gia tố tụng tại Tòa án.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 17/4/2023 bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hồ Ngọc Đ trình bày: Ông có bố ông Hồ Công H và mẹ là Hồ Thị Hồng L bố ông mất năm 2006 theo đơn khởi kiện của ông Hồ Công H thì ông có ông nội là ông Hồ Công H sinh năm 1927 và mất ngày 24/5/2020 và bà nội là Nguyễn Thị L, sinh năm 1931 mất ngày 21/4/2019. Ông bà nội mất không để lại di chúc. Ông bà nội gồm có 08 đứa con gồm: bà Hồ Thị L, sinh năm 1951, bà Hồ Thị L1, sinh năm 1954, ông Hồ Công H4 sinh năm 1955 (chết năm 2006) ông Hồ Công V, sinh năm 1958, ông Hồ Công X, sinh năm 1960 (chết năm 2021), ông Hồ Công V, sinh năm 1963, ông Hồ Công H3, sinh năm 1969 và Hồ Công H sinh năm 1972. Di sản mà ông H, bà L để lại một thừa đất số 605, tờ bản đồ số 22 có diện tích 1.436m2, địa chỉ thửa đất tại: Xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hồ Công H và Nguyễn Thị L số CG 551509 cấp ngày 10/10/2017 hiện nay các thành viên trong gia đình không thống nhất được việc chia di sản thừa kế. Vì vậy, đề đảm bảo quyền lợi cho tất cả các anh chị em nên tôi đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật và xin nhận phần đất để ở. Trên thửa đất này ông Hồ Văn V có làm một nhà thờ cấp 4 có diện tích 84m2 không yêu cầu Tòa án giải quyết Tại bản tự khai ngày 15/6/2023, biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn ông Hồ Văn Vi trình bày: Bố mẹ ông là ông Hồ Công H, sinh năm 1927 và mất ngày 24/5/2020 và mẹ là Nguyễn Thị L, sinh năm 1931 mất ngày 21/4/2019. Bố mẹ ông mất không để lại di chúc. Bố mẹ tôi sinh được 08 đứa con gồm: bà Hồ Thị L, sinh năm 1951, bà Hồ Thị L, sinh năm 1954, ông Hồ Công H4 sinh năm 1955 (chết năm 2006) ông Hồ Công V, sinh năm 1958, ông Hồ Công X, sinh năm 1960 (chết năm 2021), ông Hồ Công V, sinh năm 1963, ông Hồ Công H3, sinh năm 1969 và Hồ Công H sinh năm 1972. Di sản bố mẹ tôi để lại là một thửa đất số 605, tờ bản đồ số 22 có diện tích 1.436m2, địa chỉ thửa đất tại: Xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hồ Công H và Nguyễn Thị L số CG 551509 cấp ngày 10/10/2017. Trên thửa đất này Tôi có làm một nhà thờ cấp 4 có diện tích 84m2. Hiện nay các thành viên trong gia đình không thống nhất được việc chia di sản thừa kế. Vì vây, để đảm bảo quyền lợi nên ông đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Ông sẽ giao lại toàn bộ kỷ phần thừa kế mà ông được hưởng theo quy định của pháp luật và tài sản trên đất là nhà thờ cấp cho em Hồ Công H để làm nhà thờ cho ba mẹ ông.

Tại bản tự khai ngày 15/6/2023, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Hồ Công V trình bày: Bố mẹ ông là ông Hồ Công H, sinh năm 1927 và mất ngày 24/5/2020 và mẹ là Nguyễn Thị L, sinh năm 1931 mất ngày 21/4/2019. Bố mẹ ông mất không để lại di chúc. Bố mẹ tôi sinh được 08 đứa con gồm: bà Hồ Thị L, sinh năm 1951, bà Hồ Thị L1, sinh năm 1954, ông Hồ Công H3 sinh năm 1955 (chết năm 2006) ông Hồ Công V, sinh năm 1958, ông Hồ Công X, sinh năm 1960 (chết năm 2021), ông Hồ Công V, sinh năm 1963, ông Hồ Công H3, sinh năm 1969 và Hồ Công H sinh năm 1972. Di sản bố mẹ tôi để lại là một thửa đất số 605, tờ bản đồ số 22 có diện tích 1.436m2, địa chỉ thửa đất tại: Xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hồ Công H và Nguyễn Thị L số CG 551509 cấp ngày 10/10/2017. Trên thửa đất này ông V có làm một nhà thờ cấp 4 có diện tích 84m2. Hiện nay các thành viên trong gia đình không thống nhất được việc chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất . Vì vây, để đảm bảo quyền lợi nên ông đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật.

Tại bản tự khai ngày 15/6/2023, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Hồ Ngọc Đ trình bày: Anh con ông Hồ Công H4 và mẹ là Hồ Thị Hồng L bố anh mất năm 2006 theo đơn khởi kiện thì anh có ông nội là ông Hồ Công H sinh năm 1927 và mất ngày 24/5/2020 và bà nội là Nguyễn Thị L, sinh năm 1931 mất ngày 21/4/2019. Ông bà nội mất không để lại di chúc. Ông bà nội gồm có 08 đứa con: di sản mà để lại 01 thửa đất số 605, tờ bản đồ số 22 có diện tích 1.436m2, địa chỉ thửa đất tại: Xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hồ Công H và Nguyễn Thị L số CG 551509 cấp ngày 10/10/2017. Hiện nay các thành viên trong gia đình không thống nhất được việc chia di sản thừa kế. Vì vây, để đảm bảo quyền lợi cho tất cả các đồng thừa kế nên anh đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Anh giao lại toàn bộ kỷ phần thừa kế mà anh được hưởng và của những người ủy quyền cho anh theo quy định của pháp luật cho chú Hồ Công H để làm nhà thờ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thẩm tra viên, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Đảm bảo quy định pháp luật.

2. Hướng giải quyết vụ án:

Căn cứ vào khoản 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, c khoản 1 Điều 39; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào các Điều 609;

610; 611; 612; 613; 616; 649; 650; điểm a khoản 1 Điều 651 Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 203 Luật đất đai năm 2013. Căn cứ điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Công H về việc chia di sản thừa kế theo pháp luật của cụ Hồ Công H và cụ Nguyễn Thị L cho 8 người con của hai cụ gồm: Bà Hồ Thị L, bà Hồ Thị L, ông Hồ Công H (ông H4 chết năm 2006, ông H4 có các con Hồ Ngọc Đ, Hồ Thị Thu H1, Hồ Thị Mỹ H2) ông Hồ Công V, ông Hồ Công X, (ông X chết năm 2021, ông X có vợ và các con bà Trần Thị P, Hồ Công T, Hồ Công Q), ông Hồ Công V, ông Hồ Công H3 và Hồ Công H chia bằng hiện vật, mỗi người một phần tương đương nhau, cụ thể: Di sản của cụ Hồ Công H và cụ Nguyễn Thị L được quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 605, tờ bản đồ số 22 có diện tích 1.436m2, địa chỉ thửa đất tại: Xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, được Ủy ban nhân dân huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 551509 cấp ngày 10/10/2017 mang tên Hồ Công H và Nguyễn Thị L. Trong đó đất ở 200m2 đất có trị giá: 21.200.000 đồng và đất trồng cây hàng năm khác 1236m2 có trị giá: 40.788.000 đồng. Tổng trị giá thửa đất: 61.988.000 đồng. Như vậy, hàng thừa kế thứ nhất của cụ H, cụ L có 08 người con được hưởng giá trị mỗi kỷ phần là 7.748.500 đồng tương ứng với giá trị 179,5m2 đất (trong đó đất ở: 25m2 đất trồng cây hàng năm khác 154,5m2). Trên đất còn có 01 cây Thị trị giá 1.800.000 đồng, 01 cây Phượng trị giá 177.000 đồng, 02 cây mít trị giá 3.600.000 đồng. Tổng trị giá tài sản trên đất 5.577.000 đồng, mỗi kỷ phần thừa kế về tài sản trên đất 697.125 đồng. Tổng cộng mỗi kỷ phần thừa kế được hưởng là 8.445.625 đồng.

Trên thửa đất này có 01 ngôi nhà có diện tích 83,9m2 trị giá 357.665.000 đồng, phần tường rào dài 16m trị giá 16.480.000 đồng, trụ cổng trị giá 1.865.000 đồng, sân lát gạch 21.093.600, 01 bình phong trị giá 3.690.000 đồng là tài sản ông Việt xây dựng trên thửa đất đang tranh chấp và ông giao lại cho ông Hiệp. Các đồng thừa kế không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Công nhận sự thỏa thuận giữa bà Hồ Thị L, bà Hồ Thị L1, anh Hồ Ngọc Đ, chị Hồ Thị Thu H, chị Hồ Thị Mỹ H1, ông Hồ Công V, bà Trần Thị P, anh Hồ Công T, anh Hồ Công Q, ông Hồ Công H3 và Hồ Công H về việc nhường phần di sản được hưởng là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất cho ông Hồ Công H.

Về án phí: Ông Hồ Công H và ông Hồ Công V chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Ông Hồ Công H khởi kiện tranh chấp về thừa kế tài sản đối với ông Hồ Văn V. Ông V cư trú trên địa bàn huyện Quảng Ninh nên theo quy định tại khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đây là tranh chấp về thừa kế tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.

[2] Về thời hiệu khởi kiện: Cụ Nguyễn Thị L chết năm 2019 và cụ Hồ Công H chết năm 2020 không để lại di chúc. Tại khoản 1 Điều 623 của Bộ Luật dân sự 2015 quy định: “Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế”. Ông Hiệp khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản cụ L, cụ H ngày 17/4/2023 nên còn thời hiệu khởi kiện.

[3] Về di chúc: Cụ Nguyễn Thị L chết năm 2019 và cụ Hồ Công H chết năm 2020 không để lại di chúc. Các đồng thừa kế của hai cụ đều thừa nhận hai cụ không có con riêng, con nuôi, khi chết hai cụ không để lại di chúc; di sản thừa kế hai cụ để lại là 01 thửa đất số 605, tờ bản đồ số 22 có diện tích 1.436m2, địa chỉ thửa đất tại: Xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, được Ủy ban nhân dân huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 551509 cấp ngày 10/10/2017 mang tên Hồ Công H và Nguyễn Thị L. Do vậy, theo quy định tại Điều 650 Bộ luật dân sự 2015, Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình giải quyết tranh chấp di sản thừa kế theo pháp luật.

[4] Về xác định hàng thừa kế, những người được hưởng thừa kế cụ Hồ Công H và cụ Nguyễn Thị L: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự, hàng thừa kế thứ nhất gồm: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Các đồng thừa kế đều thừa nhận thì cụ Hồ Công H và cụ Nguyễn Thị L có 08 người con gồm: Bà Hồ Thị L, bà Hồ Thị L, ông Hồ Công H4 (ông H4 chết năm 2006, ông H4 có các con Hồ Ngọc Đ, Hồ Thị Thu H, Hồ Thị Mỹ H1) ông Hồ Công V, ông Hồ Công X, (ông X chết năm 2021, ông X có vợ và các con bà Trần Thị P, Hồ Công T, Hồ Công Q), ông Hồ Công V, ông Hồ Công H3 và Hồ Công H là đúng với quy định các Điều 613, 649, 650, 651 và Điều 652 Bộ luật dân sự 2015.

[5] Về di sản thừa kế và phân chia di sản thừa kế: Trong thời gian chung sống cụ Hồ Công H và cụ Nguyễn Thị L được quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 605, tờ bản đồ số 22 có diện tích 1.436m2, địa chỉ thửa đất tại: Xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, được Ủy ban nhân dân huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 551509 cấp ngày 10/10/2017 mang tên Hồ Công H và Nguyễn Thị L. Trong đó đất ở 200m2 đất có trị giá: 21.200.000 đồng và đất trồng cây hàng năm khác 1236m2 có trị giá: 40.788.000 đồng. Tổng trị giá thửa đất: 61.988.000 đồng. Như vậy, hàng thừa kế thứ nhất của cụ H, cụ L có 08 người con được hưởng giá trị mỗi kỷ phần là 7.748.500 đồng tương ứng với giá trị 179,5m2 đất (trong đó đất ở: 25m2 đất trồng cây hàng năm khác 154,5m2). Trên đất còn có 01 cây Thị trị giá 1.800.000 đồng, 01 cây Phượng trị giá 177.000 đồng, 02 cây mít trị giá 3.600.000 đồng. Tổng trị giá tài sản trên đất 5.577.000 đồng, mỗi kỷ phần thừa kế về tài sản trên đất 697.125 đồng. Tổng cộng mỗi kỷ phần thừa kế được hưởng là 8.445.625 đồng.

Trên thửa đất này có 01 ngôi nhà có diện tích 83,9m2 trị giá 357.665.000 đồng, phần tường rào dài 16m trị giá 16.480.000 đồng, trụ cổng trị giá 1.865.000 đồng, sân lát gạch 21.093.600, 01 bình phong trị giá 3.690.000 đồng là tài sản ông Việt xây dựng trên thửa đất đang tranh chấp và ông giao lại cho ông Hiệp. Các đồng thừa kế không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Căn cứ vào giá trị di sản của từng người được nhận, căn cứ vào thực tế việc sử dụng tài sản của đương sự hiện tại để phân chia di sản cho phù h ợp và tạo điều kiện cho tiếp tục sử dụng tài sản một cách thuận lợi nhất.

Chấp nhận sự tự nguyên của bà L, bà L1, anh Đ, chị H1, chị H2, bà P, anh T, anh Quỳnh, ông V, ông H3 nhận phần đất và tài sản trên đất được hưởng cho ông H, ông Hiệp đồng ý nhận phần đất và tài sản trên đất bà L, bà L1, anh Đ, chị H, chị H1, bà Phượng, anh T, anh Q, ông V, ông H3 nhường.

[6] Về chi phí tố tụng: Ông Hồ Ngọc Đ đã nộp tạm ứng chi phí tố tụng, tại phiên tòa ông Đ trình bày không yêu cầu Tòa án giải quyết buộc các đồng thừa kế cùng chịu chi phí tố tụng nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Ông Hồ Công H và ông Hồ Công V chịu án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91; Điều 147; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 609, 610, 611, 612, 613,616, 649, 650; điểm a khoản 1 Điều 651 Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 203 Luật đất đai năm 2013, Án lệ số 05/2016/AL;

Căn cứ điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hồ Công H về việc yêu cầu chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất, số 605, tờ bản đồ số 22 có diện tích 1.436m2, địa chỉ thửa đất tại: Xã An Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, được Ủy ban nhân dân huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 551509 cấp ngày 10/10/2017 mang tên Hồ Công H và Nguyễn Thị L.

2. Công nhận sự thỏa thuận giữa bà Hồ Thị L, bà Hồ Thị L1, anh Hồ Ngọc Đ, chị Hồ Thị Thu H, chị Hồ Thị Mỹ H1, ông Hồ Công Vi, bà Trần Thị P, anh Hồ Công T, anh Hồ Công Q, ông Hồ Công H3 và Hồ Công H về việc nhường phần di sản được hưởng là quyền sử dụng đất và tài sản trên đất cho ông Hồ Công H.

3. Phân chia di sản thừa kế cho các đương sự:

* Chia cho ông Hồ Công H được sở hữu, sử dụng diện tích đất 1.248,9m2 (trong đó gồm 175 m2 đất ở và 1.073,9m2 đất trồng cây hàng năm khác) trị giá 54.239.500 (Năm mươi tư triệu, Hai trăm ba mươi chín ngàn, năm trăm đồng), Trên đất còn có 01 cây Thị trị giá 1.800.000 đồng, 01 cây Phượng trị giá 177.000 đồng, 02 cây mít trị giá 3.600.000 đồng. Tổng trị giá tài sản ông Hiệp được hưởng là 59.119.375 đồng. Có tứ cạnh như sau: Phía Nam giáp với đường giao thông từ điểm 1 đến điểm 2 có kích thước 10,64 mét và từ điểm 2 đến điểm 3 có kích thước 21,94 mét. Phía Đông giáp với thửa đất 605 S2 từ điểm 3 đến điểm 11 có kích thước 42,20 mét. Phía Bắc giáp với thửa 595 từ điểm 6 đến điểm 7 có kích thước 27,27 mét và từ điểm 7 đến điểm 8 có kích thước 2,15 mét. Phía Tây giáp với thửa đất 604 từ điểm 8 đến điểm 11 có kích thước 19,74 mét và từ điểm 11 đến điểm 1 có kích thước 18,29 mét. (Có sơ đồ tách thửa kèm theo). Trên thửa đất này có 01 ngôi nhà có diện tích 83,9m2, phần tường rào dài 16m, trụ cổng, sân lát, 01 bình phong. Phần di sản ông H nhận thừa so với phần di sản được hưởng là 697.125đ (Sáu trăm chín mươi bảy ngàn, một trăm hai mươi lăm đồng). Ông Hồ Công H có trách nhiệm thối trả cho ông Hồ Công V số tiền 697.125đ (Sáu trăm chín mươi bảy ngàn, một trăm hai mươi lăm đồng).

* Chia cho ông Hồ Công V được sở hữu, sử dụng diện tích đất 187,1m2 (trong đó gồm 25 m2 đất ở và 162,1m2 đất trồng cây hàng năm khác) trị giá 7.748.500 (Bảy triệu, bảy trăm bốn mươi tám ngàn, năm trăm đồng), và được nhận số tiền 697.125đ (Sáu trăm chín mươi bảy ngàn, một trăm hai mươi lăm đồng) từ ông Hồ Công H. Tổng giá trị ông Viết được nhận là 8.445.625 đồng. Có tứ cạnh như sau: Phía Nam giáp với đường giao thông từ điểm 3 đến điểm 4 có kích thước 4,65 mét. Phía Đông giáp với thửa đất 606 từ điểm 4 đến điểm 5 có kích thước 42,65 mét. Phía Bắc giáp với thửa 595 từ điểm 5 đến điểm 6 có kích thước 4,20 mét. Phía Tây giáp với thửa đất 605 S1 từ điểm 6 đến điểm 3 có kích thước 42,20 mét. (Có sơ đồ tách thửa kèm theo).

Kể từ ngày người được thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ Luật dân sự 2015.

4. Về án phí dân sự:

- Ông Hồ Công H phải chịu 2.921.113đ (Hai triệu, chín trăm hai mươi mốt ngàn, một trăm mười ba đồng) án phí dân sự sơ thẩm để sung ngân sách nhà nước được trừ vào số tiền 300.00 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0004088 ngày 25/5/2023. Ông Hồ Công H phải nộp tiếp 2.621.113 đ (Hai triệu, sáu trăm hai mươi mốt ngàn, một trăm mười ba đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Ông Hồ Công V phải chịu 422.281đ (Bốn trăm hai mươi hai ngàn, hai trăm tám mươi mốt đồng) án phí dân sự sơ thẩm để sung ngân sách nhà nước.

5. Án xử công khai báo cho nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản số 29/2023/DS-ST

Số hiệu:29/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Ninh - Quảng Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:06/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về