TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 181/2020/DS-PT NGÀY 10/09/2020 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN
Vào các ngày 03 và 10 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 161/2020/TLPT-DS ngày 07 tháng 8 năm 2020, về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản”.Do Bản án Dân sự sơ thẩm số: 08/2020/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2020, của Tòa án nhân dân thị xã TB, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 207/2020/QĐ-PT ngày 14 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Huỳnh Minh T, sinh năm 1988, cư trú tại: Ấp AH, xã AH1, huyện TB (nay là khu phố AH, phường AH1, thị xã TB), tỉnh Tây Ninh, có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Huỳnh Minh T: Luật sư Nguyễn Thị Tuyết Tr, của Văn phòng Luật sư Nguyễn Tuyết Tr, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Tây Ninh, có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Kim Th, sinh năm 1970, cư trú tại: Ấp AQ, xã AH1, huyện TB (nay là khu phố AQ, phường AH1, thị xã TB), tỉnh Tây Ninh, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Nguyễn Thị Thùy N, sinh năm 1963;
+ Chị Huỳnh Minh Th1, sinh năm 1990.
Cùng cư trú tại: Ấp AH, xã AH1, huyện TB (nay là khu phố AH, phường AH1, thị xã TB), tỉnh Tây Ninh. Bà N có mặt; chị Th1 yêu cầu xét xử vắng mặt.
+ Chị Huỳnh Thị Như H, sinh năm 1999;
+ Em Huỳnh Tấn T1, sinh ngày 26-8-2005.
Cùng cư trú tại: Ấp AQ, xã AH1, huyện TB (nay là khu phố AQ, phường AH1, thị xã TB), tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện theo pháp luật của em Huỳnh Tấn T1: Bà Nguyễn Kim Th, sinh năm 1970, cư trú tại: Ấp AQ, xã AH1, huyện TB (nay là khu phố AQ, phường AH1, thị xã TB), tỉnh Tây Ninh, bà Th, chị H có mặt; em T1 vắng mặt.
+ Anh Võ Văn T2, sinh năm 1983;
+ Chị Ngô Hồng L, sinh năm 1984.
Cùng thường trú tại: Ấp Thới Mỹ 1, xã Mỹ Hòa, thị xã Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long; cùng tạm trú tại: Ấp AQ, xã AH1, huyện TB (nay là khu phố AQ, phường AH1, thị xã TB), tỉnh Tây Ninh, yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Người kháng cáo: Anh Huỳnh Minh T là nguyên đơn.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân thị xã TB, tỉnh Tây Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Huỳnh Minh T trình bày:
Cha anh là ông Huỳnh Văn C (chết năm 2017), mẹ anh là bà Nguyễn Thị Thùy N. Ông C và bà N chung sông với nhau từ khi nào anh không biết, có 02 người con chung là anh và chị Huỳnh Minh Thi, đến năm 1998 ông C, bà N không sống chung nữa, ông C sống chung với bà Nguyễn Kim Th có 02 người con là chị Huỳnh Thị Như H và em Huỳnh Tấn T1.
Ông C chết không để lại di chúc, tài sản để lại là 270,6 m2 đất, có chiều ngang mặt tiền 08 m, tọa lạc tại ấp AQ, xã AH1, huyện TB, trên đất có ngôi nhà cấp 4, bà Th đang quản lý.
Anh khởi kiện bà Th yêu cầu chia thừa kế nhà, đất của ông C, cụ thể là chia đất cho 04 người con của ông C, trong đó có anh, tính theo chiều ngang mỗi người 01 m, 04 m còn lại chia cho mẹ anh là bà N, anh yêu cầu chia bằng giá trị; ngôi nhà của ông C để lại yêu cầu chia theo quy định pháp luật; các tài sản khác trên đất là của bà Th, anh không tranh chấp, không yêu cầu chia.
- Bị đơn bà Nguyễn Kim Th trình bày:
Bà và ông Huỳnh văn C chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1998, không đăng ký kết hôn, có 02 người con chung là Huỳnh Thị Như H và Huỳnh Tấn T1.
Trước khi chung sống với bà, ông C thừa hưởng của cha mẹ ông C 500 m2 đất, tọa lạc tại ấp AQ, xã AH1, huyện TB, ông C kê khai đăng ký cho bà và ông C đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: H03833 ngày 19-5-2008, do Ủy ban nhân dân huyện TB cấp. Ngày 12-12-2008 chuyển nhượng 161,6 m2, diện tích còn lại là 338,4 m2, trên đất có ngôi nhà tranh.
Do có mâu thuẫn nên vào tháng 3 năm 2012 bà và ông C ly hôn, Tòa án nhân dân huyện TB xét xử không công nhận vợ chồng vì bà và ông C không đăng ký kết hôn, chia tài sản chung là đất cho ông C, ông C phải thanh toán cho bà 50.000.000 đồng tiền chênh lệch chia tài sản, bản án có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thi hành vì hơn một năm sau bà trở lại chung sống với ông C, có đăng ký và được Ủy ban nhân dân phường AH1, thị xã TB cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 27-10-2015.
Trong thời gian ly hôn ông C được Nhà nước tặng cho nhà đại đoàn kết vào ngày 17-8-2012, thuộc loại nhà cấp 4, ngôi nhà tranh không còn. Do ông C không lo làm ăn, thiếu nợ nhiều, khi về sống chung bà phải trả nợ thay nên vào ngày 18-12-2015, ông C ký văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng là 270,6 m2 đất nêu trên, giao cho bà làm tài sản riêng, văn bản thỏa thuận được ủy ban nhân dân phường AH1 chứng thực, bà đã sang tên thành Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp giấy: CS11960 ngày 31-12-2015, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh cấp.
Ngôi nhà cấp 4 tuy là Nhà nước cấp cho ông C nhưng bà và ông C xây thêm, là tài sản chung của bà và ông C. Sau khi ông C chết, bà xây thêm một nhà cấp 4, một nhà tạm, nhà vệ sinh, hàng rào.
Bà không chấp nhận chia thừa kế đất vì đã là tài sản riêng của bà trước khi ông C chết, không phải là di sản thừa kế, nhà và các công trình bà xây thêm cũng là của cá nhân bà, bà chỉ chấp nhận chia thừa kế ngôi nhà của ông C để lại theo quy định pháp luật. Nhà bà đã cho vợ chồng anh Võ Văn T2, chị Ngô Hồng L thuê ở từ tháng 9 năm 2019 đến nay.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Thùy N trình bày:
Bà và ông C chung sống như vợ chồng từ đầu năm 1986 (âm lịch), không tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AH1, huyện TB nhưng đã mất giấy chứng nhận kết hôn. Đến năm 1989 bà và ông C tự nguyện ly hôn, bà đã có chồng khác.
Bà yêu cầu được hưởng ½ tài sản của ông C vì là vợ ông C, yêu cầu chia thừa kế phần tài sản của ông C theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Huỳnh Minh Th1 trình bày: Chị là con của ông C và bà N, là em anh T, thống nhất theo yêu cầu của anh T.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Huỳnh Thị Như H trình bày: Chị là con của ông C và bà Th, thống nhất theo yêu cầu của bà Th, nếu được chia thừa kế thì chị nhường phần mình được chia cho bà Th.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan em Huỳnh Tấn T1 và người đại diện theo pháp luật của em T1 là bà Nguyễn Kim Th trình bày: Em T1 là em chị H, thống nhất theo yêu cầu của chị H, nhường cho bà Th phần thừa kế em T1 được chia.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Võ Văn T2 trình bày: Anh và vợ là Ngô Hồng L có thuê nhà của bà Th từ tháng 9 năm 2019 đến nay với giá 2.000.000 đồng/ tháng, tiền thuê đã trả đủ hàng tháng, anh không có ý kiến gì trong vụ án tranh chấp thừa kế giữa anh T và bà Th, không yêu cầu giải quyết hợp đồng thuê nhà giữa vợ chồng anh và bà Th.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Ngô Hồng L trình bày: Chị là vợ anh T2, thống nhất theo ý kiến của anh T2.
Tài sản tranh chấp qua đo đạc, thẩm định giá, xác định như sau:
- Đất có diện tích 270,6 m2, trong đó gồm có 150 m2 đất ở và 120,6 m2 đất trồng cây lâu năm, thuộc thửa 293, tờ bản đồ 26, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp giấy: CS11960 ngày 31-12-2015, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh cấp, bà Nguyễn Kim Th đứng tên, bản chính giấy chứng nhận bà Th đang giữ, giá trị 1.813.000.000 đồng.
- Tài sản trên đất là nhà ông C để lại, loại nhà tường cấp 4, lợp tole, nền gạch men, cửa sắt không kiếng, diện tích 60m2, giá trị 110.843.000 đồng.
- Ngoài ra, trên đất còn có nhà, công trình khác và cây trồng của bà Th, các đương sự không tranh chấp, không yêu cầu chia.
Bản án Dân sự sơ thẩm số: 08/2020/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2020, của Tòa án nhân dân thị xã TB, tỉnh Tây Ninh quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T về việc yêu cầu chia thừa kế 270,6 m2 đất, xác định đất là tài sản riêng của bà Th, không phải là di sản của ông C.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Minh T về việc yêu cầu chia thừa kế ngôi nhà của ông C.
Chia thừa kế ngôi nhà của ông C để lại theo giá trị 110.843.000 đồng, cho bà Th ½ giá trị, ½ giá trị còn lại chia đều cho bà Th và 04 người con của ông C, mỗi người 11.084.300 đồng. Bà Th sở hữu nhà và thanh toán cho anh T, chị Th1 mỗi người 11.084.300 đồng.
Ghi nhận chị H và em T1 nhường thừa kế cho bà Th.
Nhà và các tài sản khác của bà Th trên đất, các đương sự không tranh chấp, bà Th được tiếp tục sở hữu.
Ghi nhận anh Huỳnh Minh T tự nguyện chịu 3.000.000 đồng tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Anh Huỳnh Minh T phải chịu 300.000 đồng án phí phần yêu cầu chia thừa kế đất không được Tòa án chấp nhận và 554.000 đồng án phí phần giá trị tài sản được chia.
- Chị Huỳnh Minh Th1 phải chịu 554.000 (Năm trăm năm mươi bốn nghìn) đồng án phí phần giá trị tài sản được chia.
- Bà Nguyễn Kim Th phải chịu 4.433.000 đồng án phí phần ½ giá trị ngôi nhà, phần tài sản bà Th được chia và 02 phần do chị H và em T1 nhường thừa kế.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về quyền kháng cáo; quyền, nghĩa vụ thi hành án của các đương sự.
Ngày 06-7-2020, anh Huỳnh Minh T kháng cáo, yêu cầu chia ½ giá trị nhà và đất cho bà N, ½ giá trị còn lại chia cho 04 người con của ông C, trong đó có anh. Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp cho bà Nguyễn Kim Th.
Ngày 08-7-2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã TB kháng nghị, theo Quyết định số: 01/QĐKNPT-VKS-DS, nội dung: Đề nghị sửa bản án sơ thẩm về án phí đối với bà Th vì bà Th không phải chịu án phí ½ tài sản của bà Th trong khối tài sản chung với ông C, không phải chịu án phí phần tài sản em T1 được chia và nhường cho bà Th vì em T1 thuộc diện được miễn án phí theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Anh T giữ nguyên kháng cáo.
- Vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa bổ sung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TB, nội dung bổ sung là: Bản án sơ thẩm nhận định em Huỳnh Tấn T1 nhường thừa kế cho bà Th nên chia phần em T1 được hưởng cho bà Th trong khi bà Th là người đại diện theo pháp luật của em T1 là không đúng theo quy định tại khoản 3 Điều 141 của Bộ luật Dân sự; em T1 là người chưa thành niên nhưng không được miễn án phí là không đúng theo quy định tại Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14.
- Ý kiến của Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Huỳnh Minh T:
Anh T sinh ngày 02-01-1988, tính theo thời kỳ thai sản là 9 tháng 10 ngày thì bà N bắt đầu mang thai anh T vào ngày 22-3-1987, điều này chứng minh 95% bà N và ông C thành vợ chồng từ năm 1986, là hôn nhân thực tế được pháp luật công nhận theo quy định tại mục 3 của Nghị quyết số: 35/2000/NQ-QH10 ngày 09-6-2000, của Quốc hội khóa X, về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên tài sản tranh chấp là tài sản chung của ông C và bà N, ông C không được tự mình định đoạt, Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng do ông C và bà Th lập ngày 18-12-2015 là vô hiệu.
Mặc khác, theo Tóm tắt hồ sơ bệnh án của Bệnh viện Nhân dân 115 vào ngày 05-9-2019 đã ghi tiền sử bệnh của ông C là “Tăng huyết áp điều trị không thường xuyên. Tai biến mạch máu não 3 năm di chứng liệt nửa thân phải”, chứng tỏ ông C đã mất năng lực hành vi dân sự từ năm 2014, không thể cho là ông C tự nguyện giao tài sản cho bà Th.
- Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa:
+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
+ Về nội dung:
Không có căn cứ xác định hôn nhân giữa ông C, bà N là hôn nhân thực tế. Người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông C là bà Th và 04 người con của ông C.
Đất là tài sản riêng của ông C nên chia cho những người thừa kế, do bà Th có công sức đóng góp nên chia thành 06 phần, gồm: Bà Th 02 phần, 04 người con của ông C trong đó có anh T mỗi người một phần, phần của em T1 giao cho bà Th quản lý vì em T1 chưa thành niên.
Đề nghị chấp nhận một phần kháng cáo của anh T, sửa bản án sơ thẩm, chia thừa kế tài sản của ông C như đã nêu trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, quá trình tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy:
[1] Về việc xác định người thừa kế:
- Xét về mối quan hệ giữa ông Huỳnh văn C và bà Nguyễn Thị Thùy N, thấy rằng:
Bà N khai có đăng ký kết hôn với ông C tại Ủy ban nhân dân xã AH1, huyện TB (nay là phường AH1, thị xã TB) nhưng đã mất giấy chứng nhận kết hôn, Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh đối với Ủy ban nhân dân phường AH1 đê xác định có hay không việc cấp giấy chứng nhận kết hôn cho bà N và ông C là thiếu sót nhưng Tòa án cấp phúc thẩm đã khắc phục được. Qua xác minh, Ủy ban nhân dân phường AH1 cung cấp như sau: “...từ năm 1988 về trước không còn lưu giữ sổ cấp giấy chứng nhận kết hôn, từ năm 1989 đến nay Ông C, bà N không có đăng ký kết hôn tại phường AH1...”, ngoài Ủy ban nhân dân phường AH1 ra không có cơ quan nào quản lý việc đăng ký kết hôn trên địa bàn xã nên Tòa án không có căn cứ xác định bà N và ông C có đăng ký kết hôn.
Về thời gian chung sống như vợ chồng với ông C, bà N khai không thống nhất: Biên bản lấy lời khai ngày 28-4-2020 khai chung sống với ông C vào đầu năm 1987 (âm lịch), không tổ chức lễ cưới; Biên bản lấy lời khai ngày 19-5-2020 thì khai chung sống với ông C vào 1986 (âm lịch), chứng cứ bà N cung cấp là lời khai của ông Nguyễn Thanh Bình và ông Nguyễn Văn Chum nhưng theo Biên bản lấy lời khai ngày 18-5-2020, Tòa án yêu cầu ông Bình xác định thời gian ông C, bà N bắt đầu chung sống thì ông Bình khai là “không nhớ”, chứng cứ duy nhất là lời khai của ông Nguyễn Văn Chum người hàng xóm của ông C xác định ông C và bà N kết hôn năm 1986 là không đủ căn cứ.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh T cho rằng căn cứ vào ngày tháng năm sinh của anh T (ngày 02-01-1988) tính thời kỳ mang thai 9 tháng 10 ngày để xác định ông C bà N thành vợ chồng từ năm 1986 để công nhận hôn nhân thực tế là không có cơ sở.
Từ ngày 03-01-1987 đến ngày 01-01-2003, bà N và ông C không đăng ký kết hôn nên theo quy định tại điểm c mục 3 của Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 ngày 09-6-2000 của Quốc hội, bà N và ông C không được pháp luật công nhận là vợ chồng, bà N đã kết hôn với người khác từ năm 1989, Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà N không phải là người thừa kế của ông C, không chia thừa kế cho bà N là có căn cứ, bà N không kháng cáo.
- Bà Nguyễn Kim Th sống chung với ông C từ năm 1989 không đăng ký kết hôn nhưng đến năm 2015 đã đăng ký và được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên tại thời điểm ông C chết bà Th là vợ hợp pháp của ông C.
- Tòa án cấp sơ thẩm xác người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông C gồm bà Th và 04 người con của ông C là đúng theo quy định tại Điều 651 của Bộ luật Dân sự.
Anh T kháng cáo cho rằng bà N là vợ hợp pháp của ông C nên phải được chia ½ diện tích đất là không có căn cứ, anh T không có quyền kháng cáo cho bà N khi không có sự ủy quyền của bà N.
[2] Xét về việc xác định di sản:
- Đối với tài sản là đất:
Nguồn gốc đất là của mẹ ông C là cụ Nguyễn Thị Nọ, khi cụ Nọ còn sống, đất chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng, năm 1989 ông C sống chung với bà Th, năm 1999 cụ Nọ chết, ông C là người thừa kế duy nhất nên được hưởng, năm 2008 ông C cùng bà Th kê khai đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện TB cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà Th và ông C đứng tên, tức là ông C đã tự nguyện cho bà Th đồng sở hữu tài sản, phù hợp theo quy định tại Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Vào ngày 12-12-2008, ông C, bà Th đã chuyển nhượng và sang tên cho ông Nguyễn Văn Đực 161,6 m2, diện tích còn lại trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 338,4 m2, diện tích thực tế là 270,6 m2. Anh T cho rằng phần đất chuyển nhượng cho ông Đực ông C đã viết giấy tay tặng cho anh từ năm 2006 nhưng đã chuyển nhượng rồi anh không tranh chấp, chỉ yêu cầu chia diện tích đất còn lại bà Th đang quản lý.
Theo Bản án số: 88/2012/HN&GĐ-ST ngày 17-8-2012 thì 270,6 m2 đất là tài sản chung của ông C và bà Th, chia cho ông C được quyền sử dụng, ông C phải thanh toán cho bà Th 50.000.000 đồng, bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa thi hành án do ông C, bà Th quay lại sống chung.
Xét Văn bản thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ chồng do ông C, bà Th lập vào ngày 18-12-2015, thấy rằng:
Ông C, bà Th được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 07-10-2015, tại thời điểm ký văn bản thỏa thuận ông C và bà Th là vợ chồng, do Bản án số: 88/2012/HN&GĐ-ST chưa thi hành án, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn có tên bà Th nên ông C ký văn bản thỏa thuận phân chia cho bà Th làm tài sản riêng và đã được Ủy ban nhân dân xã AH1 chứng thực, là phù hợp theo quy định tại Điều 38 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư cung cấp bản “Tóm tắt hồ sơ bệnh án” của ông C do Bệnh viện nhân dân 115 lập vào ngày 05-9-2019, trong đó có ghi tiền sử bệnh của ông C là “Tăng huyết áp điều trị không thường xuyên. Tai biến mạch máu não 3 năm di chứng liệt nửa thân phải” để khẳng định ông C mất năng lực hành vi dân sự tại thời điểm ký văn bản thỏa thuận là không có căn cứ vì tài liệu này không phải là kết luận của cơ quan chuyên môn về năng lực hành vi của ông C.
Mặc khác, theo Biên bản xác minh ngày 19-5-2020, ông Nguyễn Văn Chum là bạn, sống gần nhà ông C khai “Trước khi chết tinh thần của ông C minh mẫn, bình thường, không bị tâm thần hay các bệnh liên quan đến thần kinh”. Lời khai này phù hợp với lời khai của ông Lê Minh Mẫn, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân xã AH1, người tiếp nhận, xử lý việc thỏa thuận phân chia tài sản của ông C; phù hợp với lời khai của bà Th là ông C có bị tai biến một lần vào năm 2014 có bị liệt một bên nhưng sau đó tập vật lý trị liệu nên hồi phục, tự đi xe đạp được. Qua xác minh xác định được thời gian sống chung với ông C bà Th lo chi tiêu trong gia đình, khi ông C bệnh bà Th lo điều trị, khi chết bà Th lo ma chay, cúng giỗ.
Từ những phân tích nêu trên, có căn cứ xác định ông C đã tự nguyện thỏa thuận giao đất cho bà Th làm tài sản riêng và bà Th đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng quy định pháp luật nên đất không phải là di sản thừa kế của ông C.
Anh T và Luật sư yêu cầu chia đất, Vị Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa đề nghị chia đất cho những người gồm bà Th và các con ông C là không có căn cứ.
- Về tài sản trên đất: Nhà tường cấp 4, lợp tole, nền gạch men, cửa sắt, giá trị 110.843.000 đồng là tài sản riêng do Nhà nước cấp cho ông C vào tháng 8 năm 2012, khi ông C và bà Th ly hôn không đề cập đến ngôi nhà, ông C không có văn bản thỏa thuận ngôi nhà là tài sản chung, bà Th khai tuy chung sống với ông C nhưng bà Th có nhà riêng, các công trình bà Th xây thêm trên đất là xây sau khi ông C chết. Vì vậy có căn cứ xác định ngôi nhà ông C để lại là di sản thừa kế, phải chia đều cho bà Th và 04 người con của ông C.
Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng ông C tự nguyện nhập vào tài sản chung và chia cho bà Th được sở hữu ½ giá trị ngôi nhà trước khi chia thừa kế là không có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của anh T yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp cho bà Th, thấy rằng: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp theo văn bản thỏa thuận phân chia tài sản giữa ông C và bà Th, là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Th có giá trị pháp lý hay không căn cứ vào giá trị pháp lý của văn bản thỏa thuận phân chia tài sản giữa ông C và bà Th, vấn đề này đã được phân tích làm rõ như trên. Mặc khác, anh T đã rút yêu cầu này tại phiên tòa sơ thẩm sau đó lại kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận.
[4] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TB và phần kháng nghị bổ sung của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh, thấy rằng:
- Em Huỳnh Tấn T1 chưa đủ 15 tuổi, bà Th là người đại diện theo pháp luật, tại khoản 3 Điều 141 của Bộ luật Dân sự theo quy định: “...người đại diện không được nhân danh người được đại diện đê xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình...”. Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng em T1 nhường thừa kế nên giao cho bà Th phần thừa kế của em T1 được chia là không đúng. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh kháng nghị bổ sung về vấn đề này là có căn cứ.
- Em T1 là trẻ em, được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại tính án phí phần di sản chia cho em T1 là không đúng, Viện kiểm sát nhân dân thị xã TB kháng nghị phần này là có căn cứ.
- Đối với phần kháng nghị về việc Tòa án cấp sơ thẩm tính án phí phần giá trị ½ ngôi nhà chia cho bà Th là không có căn cứ vì ngôi nhà không phải là tài sản chung của bà Th và ông C mà là tài sản riêng của ông C.
[5] Từ những luận cứ nêu trên, có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của anh T, chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TB và một phần kháng nghị bổ sung của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh, sửa bản án sơ thẩm, chia lại thừa kế tài sản của ông C như sau:
- Chia theo giá trị:
Di sản là ngôi nhà ông C để lại giá trị 110.843.000 đồng, chia cho 05 người thừa kế của ông C, gồm: Bà Nguyễn Kim Th, anh Huỳnh Minh T, chị Huỳnh Minh Th1, chị Huỳnh Thị Như H, em Huỳnh Tấn T1, mỗi người 22.168.600 đồng.
Chị H nhường thừa kế cho bà Th nên ghi nhận.
Số tiền 22.168.600 đồng chia cho em T1, lẽ ra bà Th phải giao nhưng do em T1 là người chưa thành niên nên bà Th được quản lý.
- Chia theo hiện vật: Ngôi nhà do bà Th đang sử dụng, nằm trên đất ông C đã chuyển quyền sử dụng cho bà Th, trên đất có nhà và tài sản khác của bà Th. Anh T và chị Th1 yêu cầu chia bằng giá trị nên giao cho bà Th sở hữu nhà, bà Th phải thanh toán cho anh T và chị Th1 mỗi người 22.168.600 đồng.
[6] Do sửa bản án sơ thẩm nên sửa phần án phí sơ thẩm, cụ thể là:
Bà Th phải chịu án phí đối với tài sản bà Th được chia và được chị H nhường theo quy định tại khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, cụ thể là: 22.168.600 đồng + 22.168.600 đồng = 44.337.200 đồng x 5% = 2.216.860 đồng, làm tròn số là 2.217.000 đồng.
Anh T phải chịu 300.000 đồng tiền án phi đối với yêu cầu chia thừa kế đất không được Tòa án chấp nhận và 1.108.000 đồng tiền án phí đối với giá trị tài sản được chia, tổng cộng là 1.408.000 đồng.
Chị Th1 phải chịu 1.108.000 đồng án phí đối với giá trị tài sản được chia.
Em T1 được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 nên bà Th không phải chịu án phí đối với số tiền 22.168.600 đồng em T1 được chia mà bà Th quản lý.
[7] Ngoài ra bản án sơ thẩm có sai sót cần phải sửa là nhà, đất tranh chấp bà Th đã cho vợ chồng anh Võ Văn T2, chị Ngô Hồng L thuê, anh T và chị Th1 không tranh chấp nhưng không được ghi nhận trong bản án.
[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của anh T được Tòa án chấp nhận một phần nên theo quy định tại Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, anh T không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 650, 651, 660 của Bộ luật Dân sự; Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 38 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm c mục 3 của Nghị quyết số: 35/2000/NQ-QH10 ngày 09-6-2000, của Quốc hội, hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 12, 26, 27, 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của anh Huỳnh Minh T về việc chia thừa kế ngôi nhà.
2. Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TB về việc chia thừa kế cho em Huỳnh Tấn T1 và việc miễn án phí sơ thẩm đối với phần di sản em T1 được chia.
3. Sửa Bản án Dân sự sơ thẩm số: 08/2020/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2020, của Tòa án nhân dân thị xã TB, tỉnh Tây Ninh:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Minh T “Tranh chấp về thừa kế tài sản” đối với bà Nguyễn Kim Th.
- Chia di sản thừa kế của ông Huỳnh văn C như sau:
+ Bà Nguyễn Kim Th được sở hữu ngôi nhà tường cấp 4, lợp tole, nền gạch men, cửa sắt không kiếng, tọa lạc trên đất của bà Th.
+ Bà Nguyễn Kim Th phải thanh toán cho anh Huỳnh Minh T và chị Huỳnh Minh Th1 mỗi người 22.168.600 (hai mươi hai triệu, một trăm sáu mươi tám nghìn, sáu trăm chẵn) đồng; thanh toán và quản lý cho em Huỳnh Tấn T1 22.168.600 (hai mươi hai triệu, một trăm sáu mươi tám nghìn, sáu trăm chẵn) đồng.
+ Ghi nhận chị Huỳnh Thị Như H nhường thừa kế cho bà Nguyễn Kim Th.
- Ghi nhận anh Huỳnh Minh T, chị Huỳnh Minh Th1 không tranh chấp hợp đồng thuê nhà giữa bà Nguyễn Kim Th và vợ chồng anh Võ Văn T2, chị Ngô Hồng L.
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Huỳnh Minh T và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh về việc yêu cầu chia thừa kế 270,6 m2 đất, thuộc thửa 293, tờ bản đồ 26, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CB 303565, số vào sổ: CS11960 ngày 31-12-2015, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Tây Ninh cấp, bà Nguyễn Kim Th đứng tên, đất tọa lạc tại ấp AQ, xã AH1, huyện TB (nay là khu phố AQ, phường AH1, thị xã TB), tỉnh Tây Ninh.
- Không chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TB về việc không tính án phí ½ giá trị căn nhà mà Tòa án cấp sơ thẩm chia cho bà Th.
- Ghi nhận anh Huỳnh Minh T, chị Huỳnh Minh Th1 không tranh chấp tài sản của bà Th trên 270,6 m2 đất, thuộc thửa 293, tờ bản đồ 26 (BĐ 2005), Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CB 303565, số vào sổ: CS11960 ngày 31-12-2015, gồm: Nhà tường cấp 4 diện tích 40 m2, nhà vệ sinh, nhà tạm, các công trình khác và cây trồng trên đất.
- Kể từ ngày anh Huỳnh Minh T, chị Huỳnh Minh Th1 có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Th chưa giao đủ số tiền như đã nêu trên thì hàng tháng bà Th còn phải trả cho anh T, chị Th1 tiền lãi, tương ứng với số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
- Ghi nhận anh Huỳnh Minh T tự nguyện chịu 3.000.000 (ba triệu chẵn) đồng chi phí xem đo đạc, định giá tài sản, đã nộp xong.
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Anh Huỳnh Minh T phải chịu 1.408.000 đồng, được trừ vào 2.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu số: 0017755 ngày 16-12-2019, của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TB, tỉnh Tây Ninh. Hoàn trả cho anh T 592.000 (năm trăm chín mươi hai nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số: 0017755.
+ Chị Huỳnh Minh Th1 phải chịu 1.108.000 (một triệu, một trăm lẻ tám nghìn) đồng.
+ Bà Nguyễn Kim Th phải chịu 2.217.000 (hai triệu, hai trăm mười bảy nghìn) đồng.
+ Em Huỳnh Tấn T1 được miễn.
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh Huỳnh Minh T không phải chịu, hoàn trả cho anh T 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu số: 0018352 ngày 06-7-2020, của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TB, tỉnh Tây Ninh.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản số 181/2020/DS-PT
Số hiệu: | 181/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 10/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về