TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 137/2023/DS-ST NGÀY 11/09/2023 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H.H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 97/2023/TLST–DS, ngày 03 tháng 7 năm 2023 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2023/QĐXXST - DS ngày 08 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 94/2023/ QĐST ngày 24/8/2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Trần Văn C, sinh năm 1953; địa chỉ: Xóm X, xã H.P, huyện H.H, tỉnh N, “có đơn xin vắng mặt”;
Bị đơn: Ông Trần Văn C1, sinh năm 1950; địa chỉ: Xóm X, xã H.P, huyện H.H, tỉnh N, “có đơn xin vắng mặt”;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Trần Thị M, sinh năm 1970; địa chỉ: Xóm 8, xã Hải Hà, huyện H.H, tỉnh N, “có đơn xin vắng mặt”;
2. Bà Trần Thị T, sinh năm 1966; địa chỉ: Xóm Lưu Rong, xã H.P, huyện H.H, tỉnh N, “có đơn xin vắng mặt”;
3. Bà Trần Thị N,sinh năm 1964; nơi cư trú: Xóm 4, xã H.P, huyện H.H, tỉnh N;
4. Chị Trần Thị H, sinh năm 1985; địa chỉ: Xóm 1, xã Xuân Bắc, huyện X, tỉnh N, “có đơn xin vắng mặt”;
5. Bà Trần Thị H1, sinh năm 1955; địa chỉ: Xóm X, xã H.P, huyện H.H, tỉnh N, “có đơn xin vắng mặt”.
Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1951; địa chỉ: Xóm 8, xã Hải Hà, huyện H.H, tỉnh N, “có đơn xin vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/5/2023,lời khai trong quá trình tố tụng nguyên đơn ông Trần Văn C trình bày:
Cụ Trần Văn A (chết năm 2016) và cụ Phạm Thị K (chết năm 2014) sinh được 05 người con gồm: ông Trần Văn C1, ông Trần Văn C, ông Trần Thanh L, bà Trần Thị N, bà Trần Thị T, không có con nuôi. Ông Liêm đã hy sinh năm 1972 là liệt sỹ có vợ là bà Nguyễn Thị N1 và 01 người con là Trần Thị M. Bà Trần Thị N bỏ nhà đi từ năm 1998 đến nay không có tin tức gì, không biết đang làm ăn sinh sống ở đâu, bà N không có chồng, có 01 con gái là Trần Thị H. Bố mẹ cụ A, cụ k chết trước trước 2 cụ. Khi còn sống vợ chồng cụ A tạo dựng được khối tài sản chung là thửa đất số 149, tờ bản đồ số 4 diện tích 390m2 (trong đó: đất ở 220 m2, đất vườn 55 m2, đất ao 115 m2) tại xóm X, xã H.P, huyện H.H và một ngôi nhà cấp bốn trên đất. Đất đã được UBND huyện H.H, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Trần Văn A và bà Phạm Thị K. Vợ chồng ông C1, bà Hương chung sống cùng cụ A và cụ k tại nhà đất của 2 cụ. Cụ A và cụ k chết đều không để lại di chúc. Sau khi 2 cụ chết vợ chồng ông C1 tiếp tục sử dụng nhà đất 2 cụ. Ngày 29/11/2020, các con cháu của cụ A, cụ k (trừ bà N) đã họp và thống nhất: tài sản nhà đất của 2 cụ để lại có tổng trị giá 110.000.000đồng, chia làm 05 phần bằng nhau cho 5 người con và nhất trí để ông C1 sử dụng toàn bộ nhà đất của 2 cụ và có trách nhiệm thanh toán tiền 4 phần còn lại cho những người được hưởng thừa kế và mọi người có trách nhiệm ký thủ tục để ông C1 được đứng tên quyền sử dụng đất, ngoài ra mọi người còn thống nhất trích cho chị M (con liệt sỹ Liêm)10.000.000đồng, cho anh Chiến (cháu đích tôn) 10.000.000đồng hương hoa các cụ, số còn lại chia đều làm 5 phần, mỗi phần được hưởng 19.000.000đồng. Ông C1 đã thanh toán đủ tiền cho mọi người.
Nay ông C nhất trí để ông C1 được toàn quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản trên đất cụ A, cụ k để lại mà không yêu cầu phải thanh toán khoản tiền nào. Ông C cũng không yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với bà Trần Thị N. Đề nghị Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận của ông C, ông C1, chị M, bà T, Chị H là để ông Trần Văn C1 được quyền sở hữu sử dụng tài sản trên đất và thửa đất số 149, tờ bản đồ số 4 diện tích 390m2 (trong đó: đất ở 220 m2, đất vườn 55 m2, đất ao 115 m2) tại xóm X, xã H.P, huyện H.H và một ngôi nhà cấp bốn và công trình xây dựng trên đất. Đất đã được UBND huyện H.H, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Trần Văn A và bà Phạm Thị K. Về phía bà N hiện nay anh em không rõ địa chỉ bà N đang ở đâu và làm gì thì ông C đề nghị Tòa án chia di sản thừa kế của cụ A và cụ k cho bà N tính giá trị theo quy định pháp luật và giao lại cho con gái bà N quản lý.
* Tại biên bản lấy lời khai ngày 07/7/2023,bị đơn là ông Trần Văn C1 trình bày:
Nhất trí với lời trình bày của ông Trần Văn C về quan hệ huyết thống, quan hệ gia đình và nguồn gốc thửa đất chia thừa kế tài sản của cụ A và cụ k là bố mẹ đẻ ông. Ngày 29/11/2020, các con cháu của cụ A, cụ k gồm: ông Trần Văn C, ông Trần Văn C1, bà Trần Thị T, bà Nguyễn Thị N1, chị Trần Thị M, chị Trần Thị H đã thống nhất, thỏa thuận chia thừa kế nhà đất của cụ A, cụ k để lại làm 5 phần và đều nhất trí chuyển nhượng phần tài sản thừa kế mình được chia cho ông C1, ông C1 đã thanh toán đủ số tiền cho những người này như ông C trình bày là đúng. Phần giá trị tài sản bà N được chia, ông C1 đã giao cho chị Trần Thị H là con gái của bà N giữ số tiền 19.000.000đồng.Việc thỏa thuận thống nhất có được lập thành văn bản mọi người cùng ký tên. Vợ chồng ông C1, bà Hương sử dụng toàn bộ nhà đất từ khi từ cụ A, cụ k chết đến nay. Nay ông C1 giữ nguyên nguyện vọng được sử dụng, sử hữu toàn bộ nhà đất của bố mẹ để lại vì những người thừa kế theo pháp luật của 2 cụ đều nhất trí và đã chuyển nhượng kỷ phần của mình cho ông C1, ông C1 cũng đã thanh toán tiền đầy đủ. Tuy nhiên có bà Trần Thị N là con gái của cụ A, cụ k vắng mặt tại địa phương từ lâu nên không có ý kiến về việc chia thừa kế tài sản của bố mẹ để lại nên ông C1 không làm thủ tục đăng ký đứng tên quyền sử dụng đất được. Ông C1 không yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với bà Trần Thị N. Nay ông C1 đề nghị Tòa án ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của những người thừa kế của cụ A và cụ k theo biên bản thỏa thuận ngày 29/11/2020 gồm: bà T, ông C1, ông C, chị M, bà N, cụ thể : Ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 được quyền sử dụng, sở hữu nhà đất tại thửa đất số 149, tờ bản đồ số 4 diện tích 390m2 (trong đó: đất ở 220 m2, đất vườn 55 m2, đất ao 115 m2) tại xóm X, xã H.P, huyện H.H và một ngôi nhà cấp bốn trên đất. Đất đã được UBND huyện H.H, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Trần Văn A và bà Phạm Thị K theo thỏa thuận lập ngày 29/11/2020. Ông nhất trí để bà Trần Thị H1 (vợ ông) được cùng ông đứng tên quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản trên đất và nhất trí thanh toán giá trị phần tài sản thừa kế cho bà N theo quy định của pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: bà Trần Thị T, chị Trần Thị M trình bày:
Nhất trí như lời trình bày của ông C, ông C1 ở trên. Việc các con, cháu của cụ A, cụ k đã thỏa thuận và nhất trí để ông C1 được quyền sử dụng toàn bộ nhà đất 2 cụ để lại và thanh toán tiền như biên bản lập ngày 29/11/2020 là đúng. Ông C1 đã thanh toán đủ số tiền cho những người được hưởng thừa kế mỗi suất là 19.000.000đồng. Riêng suất của bà N ông C1 đã giao cho Chị H là con gái bà N giữ, bà T, chị M không đề nghị Tòa án thông báo tìm kiếm bà N. Nay bà T và chị M nhất trí để ông C1 bà Hương được quyền sử dụng phần nhà, đất mình được chia thừa kế mà không yêu cầu phải thanh toán giá trị.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Trần Thị H trình bày:
Mẹ đẻ chị là bà Trần Thị N bỏ đi khỏi nhà từ năm 1998 cho đến nay không có tin tức gì. Chị H không biết bố, cũng không biết bố hiện còn sống hay đã chết, bà N chỉ có 1 người con là Chị H. Từ khi mẹ bỏ đi, Chị H ở cùng cụ A, cụ k và vợ chồng ông C1, bà Hương cho đến khi đi lấy chồng. Chị đã đi tìm kiếm bà N nhiều nơi nhưng không có kết quả, nay chị không biết bà N đang sinh sống ở đâu nhưng chị không yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với bà N. Chị H nhất trí về quan hệ huyết thống, tài sản nhà đất của cụ k cụ A để lại như lời trình bày của ông C. Ngày 29/11/2020 chị có tham gia buổi họp gia đình và thống nhất để ông C1 được quyền sử dụng toàn bộ nhà đất của cụ A, cụ k để lại và chị đã nhận số tiền 19.000.000đồng từ ông C1 thanh toán giá trị chia thừa kế của mẹ chị là bà N. Nay chị đề nghị Tòa án xem xét để vợ chồng ông C1, bà Hương được quyền sử dụng toàn bộ nhà, đất của cụ A, cụ k để lại. Phần giá trị tài sản chia thừa kế mẹ chị được hưởng chị đã nhận từ ông C1 là 19.000.000đồng, chị nhận trách nhiệm tiếp tục quản lý số tiền này và nhận trách nhiệm sẽ giao lại cho mẹ chị khi mẹ chị trở về.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị H1 trình bày:
Bà Hương nhất trí cùng đứng tên quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản nhà đất của cụ A, cụ k để lại với ông Trần Văn C1
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H.H tại phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 21; Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, thông qua việc kiểm sát tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71, 72, 73 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về đường lối giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu hồ sơ, trên cơ sở phân tích, đánh giá chứng cứ thể hiện trong hồ sơ và lời trình bày của các đương sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H.H đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn C về việc chia di sản thừa kế của cụ Trần Văn A và cụ Phạm Thị K.
Công nhận cho ông Trần Văn C1 và bà Trần Thị H1 được quyền sử dụng thửa đất số 149, tờ bản đồ số 4 diện tích 390m2 (trong đó: đất ở 220 m2, đất vườn 55 m2, đất ao 115 m2) tại xóm X, xã H.P, huyện H.H và được quyền sở hữu nhà cấp bốn, các công trình xây dựng trên đất. Đất đã được UBND huyện H.H, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số GCNQSD đất số AK 042541 ngày 09/5/2007 mang tên ông Trần Văn A và bà Phạm Thị K.
Ông Trần Văn C1 và bà Trần Thị H1 có trách nhiệm thanh toán giá trị kỷ phần được hưởng thừa kế cho bà Trần Thị N theo quy định của pháp luật và được đối trừ số tiền 19.000.000đồng mà ông C1 đã giao cho chị Trần Thị H (con gái bà N) vào năm 2020. Do bà N vắng mặt tại nơi cư trú nên tạm giao cho chị H quản lý. Chị H có trách nhiệm giao trả lại cho bà N khi bà N trở về.
Về án phí, chi phí tố tụng và các vấn đề khác đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt tất cả các đương sự nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: ông Trần Văn C, ông Trần Văn C1, bà Trần Thị T, bà Trần Thị H1, chị Trần Thị M, chị Trần Thị H đều có đơn xin xét xử vắng mặt; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị N vắng mặt tại phiên tòa lần hai không lý do; người làm chứng là bà Nguyễn Thị N1 vắng mặt nhưng có đơn xin vắng mặt và đã có lời khai trực tiếp cho Tòa án nên căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự và người làm chứng.
[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện chia thừa kế tài sản, bị đơn có hộ khẩu thường trú tại xã H.P, huyện H.H, tỉnh N nên đây là tranh chấp về chia thừa kế tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H.H theo quy định tại khoản 5 Điều 26, Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về thẩm định và định giá tài sản: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện H.H đã tiến hành thẩm định đo đạc hiện trạng và định giá tài sản, kết quả như sau:
- Thửa đất số 149, tờ bản đồ số 4 có diện tích 390m2, trong đó: đất ONT 220m2, đất CLN 55m2, đất NTS 115m2. Giá đất là 1.200.000đ/m2 (một triệu hai trăm nghìn đồng một mét vuông).
- Tài sản trên đất gồm: 01 nhà mái ngói kèo gỗ, xà gồ tre luồng diện tích 60,1m2 xây năm 1994, 02 chuồng chăn nuôi lợn, 01 sân bê tông, vườn trồng một số cây ăn quả còn nhỏ, xung quanh thửa đất có rào lưới B40 đã cũ. Toàn bộ những tài sản trên đều đã xuống cấp, hết giá trị khấu hao, cây ăn quả do ông C1 trồng các đương sự không đề nghị định giá.
Toàn bộ thửa đất và những tài sản trên đất hiện vợ chồng ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 đang quản lý, sử dụng.
[4] Về nguồn gốc nhà đất yêu cầu chia thừa kế: Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự có cơ sở khẳng định: Thửa đất số 149, tờ bản đồ số 4 diện tích 390m2 (trong đó: đất ở 220 m2, đất vườn 55 m2, đất ao 115 m2) tại xóm X, xã H.P, huyện H.H, tỉnh N trị giá 468.000.000đồng và một ngôi nhà cấp bốn trên đất (đã hết khấu bao) là của vợ chồng cụ Trần Văn A và Phạm Thị K. Nguồn gốc do hai cụ nhận chuyển nhượng từ cụ Vũ Văn Tuế b vào năm 2007, đất đã được UBND huyện H.H cấp GCNQSD đất số AK 042541 ngày 09/5/2007 mang tên Trần Văn A và Phạm Thị K. Cụ A chết năm 2016, cụ k chết năm 2014 đều không để lại di chúc.
[5] Xác định những người hưởng di sản thừa kế của cụ A, cụ k: Theo lời trình bày của các đương sự có căn cứ khẳng định những người được hưởng di sản thừa kế của cụ k và cụ A gồm 05 người: ông Trần Văn C1, ông Trần Văn C, ông Trần Thanh L, bà Trần Thị N, bà Trần Thị T. Do ông Trần Thanh L (liệt sỹ hy sinh năm 1972) chết trước cụ k và cụ A nên chị Trần Thị M (con ông Liêm) là người thừa kế thế vị tài sản của cụ k và cụ A. Do đó di sản thừa kế của cụ A, cụ k được chia làm 5 phần bằng nhau cho: ông Trần Văn C1, ông Trần Văn C, chị Trần Thị M, bà Trần Thị N, bà Trần Thị T, mỗi phần trị giá 93.600.000đồng.
[6] Về giấy thỏa thuận ủy quyền ngày 29/11/2020 về việc chia thừa kế quyền sử dụng đất của cụ A và cụ k: Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai thống nhất của các đương sự thì ngày 29/11/2020 thì các con, cháu của cụ A, cụ k gồm: Ông Trần Văn C1, ông Trần Văn C, bà Trần Thị T, chị Trần Thị H, chị Trần Thị M đã thỏa thuận và thống nhất chia thừa kế nhà đất của cụ A, cụ k để lại và cùng ký tên trong văn bản với nội dung: nhà đất của 2 cụ để lại chia làm 05 phần bằng nhau cho 5 người con, tổng trị giá 110.000.000đồng và nhất trí để ông C1 sử dụng toàn bộ nhà đất của 2 cụ và có trách nhiệm thanh toán tiền cho những người được hưởng thừa kế sau khi trích cho chị Trần Thị M, anh Trần Văn C2 mỗi người số tiền 10.000.000đồng, mỗi kỷ phần được hưởng giá trị tài sản là 19.000.000đồng, ông C1 đã thanh toán đủ tiền cho mọi người. Như vậy việc những người thừa kế theo pháp luật của cụ A cụ k đã thỏa thuận thống nhất và thực hiện việc phân chia tài sản thừa kế của 2 cụ để lại là đúng. Đến nay các đương sự đều công nhận nội dung này và đều nhất trí để ông C1 được quyền sử dụng toàn bộ nhà đất cụ k, cụ A để lại mà không yêu cầu phải thanh toán thêm giá trị. Xét việc tự thỏa thuận phân chia di sản thừa kế và sự tự nguyện chuyển nhượng kỷ phần thừa kế của các đương sự cho ông C1 là không trái quy định pháp luật, đạo đức xã hội. Do đó cần được ghi nhận sự thỏa thuận này theo quy định tại các Điều 609, 611, 612, 613, 649, 651, 656, 660, 221, 235, 500 của Bộ luật dân sự; Điều 166, 167 Luật đất đai.
[7] Tuy nhiên việc thỏa thuận thống nhất phân chia di sản thừa kế của cụ A, cụ k lại không có ý kiến của bà Trần Thị N là người được hưởng thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của 2 cụ theo quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự. Bà N bỏ đi khỏi địa phương từ năm 1998 đến nay không có tin tức gì nhưng các đương sự đều không yêu cầu Tòa án ra thông báo tìm kiếm bà N nên Tòa án nhân dân huyện H.H không giải quyết việc này. Tuy nhiên Hội đồng xét xử sẽ xem xét để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự và bà N.
[8] Ông Trần Văn C1 có nguyện vọng được quyền sử dụng toàn bộ nhà đất của cụ k, cụ A để lại. Xét nguyện vọng này của ông C1 là hợp pháp và phù hợp với điều kiện thực tế vì ông C1 đang sử dụng toàn bộ nhà đất 2 cụ, các đồng thừa kế đã thống nhất nhất trí chuyển nhượng phần tài sản mình được chia cho ông C1 nên cần chấp nhận nguyện vọng của ông C1 nhưng ông C1 phải có trách nhiệm thanh toán giá trị tài sản thừa kế cho bà N theo quy định của pháp luật là 93.600.000đồng. Sau khi đối trừ số tiền 19.000.000đồng ông C1 đã giao cho Chị H (con gái bà N) quản lý vào năm 2020, ông C1 còn phải thanh toán cho bà N số tiền 74.600.000đồng. Do hiện nay bà N không có mặt tại địa phương nên giao cho Chị H tiếp tục quản lý số tiền này, khi nào bà N về địa phương Chị H phải có trách nhiệm giao lại cho bà N tổng số tiền là 93.600.000đồng.
[9] Từ những phân tích đánh gia nêu trên có đủ cơ sở xác định:
[9.1]. Xác nhận thửa đất số 149, tờ bản đồ số 4 diện tích 390m2 (trong đó: đất ở 220m2, đất vườn 55m2, đất ao 115m2) và một ngôi nhà cấp bốn trên đất tại xóm X, xã H.P, huyện H.H, tỉnh N theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 042541 do UBND huyện H.H cấp ngày 09/5/2007 mang tên ông Trần Văn A và bà Phạm Thị K là di sản thừa kế của vợ chồng cụ Trần Văn A và cụ Phạm Thị K.
[9.2]. Xác định những người hưởng thừa kế di sản của cụ Trần Văn A và cụ Phạm Thị K theo quy định pháp luật gồm: ông Trần Văn C1, ông Trần Văn C, bà Trần Thị N, bà Trần Thị T, chị Trần Thị M.
[9.3]. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của: ông Trần Văn C, bà Trần Thị T, chị Trần Thị M chuyển nhượng toàn bộ kỷ phần thừa kế mình được chia thuộc thửa đất số 149, tờ bản đồ số 4 cho ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 được quyền sử dụng. Ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 đã thanh toán đủ số tiền chuyển nhượng cho ông Trần Văn C, bà Trần Thị T, chị Trần Thị M.
[9.4]. Ông Trần Văn C, bà Trần Thị H1 có trách nhiệm thanh toán giá trị chia di sản thừa kế cho bà Trần Thị N số tiền 93.600.000đồng. Ông C1 đã giao số tiền 19.000.000đồng chị Trần Thị H (con gái bà N) quản lý vào năm 2020, ông C1 còn phải thanh toán cho bà N số tiền 74.600.000đ (bảy mươi tư triệu sáu trăm nghìn đồng). Tạm giao số tiền này cho chị Trần Thị H quản lý. Chị Trần Thị H có trách nhiệm giao cho bà Trần Thị N tổng số tiền là 93.600.000đồng khi bà N trở về.
[9.5]. Ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 được quyền sử dụng toàn bộ thửa số 149, tờ bản đồ số 4 diện tích 390m2 đất (trong đó: đất ở 220m2, đất vườn 55m2, đất ao 115m2) tại xóm X, xã H.P, huyện H.H, tỉnh N, thửa đất được giới hạn bởi các điểm (1,2,3,4,5,6,1). Thửa đất đã được UBND huyện H.H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng số AK 042541 ngày 09/5/2007 mang tên ông Trần Văn A và bà Phạm Thị K.
[10] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp.
[11] Về án phí: Các đương sự được chia tài sản nên phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên ông C, ông C1, bà Hương là người cao tuổi nên được miễn nộp án phí, chị M là đối tượng con liệt sỹ nên được miễn án phí, bà N, bà T phải nộp án phí dân sư sơ thẩm theo giá trị mình được chia theo quy định của pháp luật.
[12] Chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc thẩm định và định giá tài sản ông Trần Văn C1 đã nộp đủ và không yêu cầu tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: các Điều 609, 611, 612, 613, 623, 649, 651, 652, 656, 660 và các Điều 221, 385, 500 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 166, 167 Luật Đất đai năm 2013; khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 229, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn C về việc chia thừa kế tài sản của cụ Trần Văn A và cụ Phạm Thị K.
2. Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận của ông Trần Văn C, bà Trần Thị T, chị Trần Thị M chuyển nhượng kỷ phần thừa kế mình được chia thuộc thửa đất số 149, tờ bản đồ số 4 cho ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 được quyền sử dụng với giá 19.000.000đ. Ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 đã thanh toán đủ số tiền chuyển nhượng cho ông Trần Văn C, bà Trần Thị T, chị Trần Thị M.
3. Ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 được quyền sử dụng toàn bộ thửa số 149, tờ bản đồ số 4 diện tích 390m2 đất (trong đó: đất ở 220m2, đất vườn 55m2, đất ao 115m2) tại xóm X, xã H.P, huyện H.H, tỉnh N, thửa đất được giới hạn bởi các điểm (1,2,3,4,5,6,1). Thửa đất đã được UBND huyện H.H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng số AK 042541 ngày 09/5/2007 đứng tên ông Trần Văn A và bà Phạm Thị K.
(Vị trí, chiều cạnh có sơ đồ vẽ kèm theo).
4. Ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 có trách nhiệm thanh toán cho bà Trần Thị N số tiền 93.600.000đồng ( giá trị kỷ phần thừa kế bà N được chia). Ông C1 đã giao số tiền 19.000.000đồng chị Trần Thị H (con gái bà N) quản lý vào năm 2020, ông C1, bà Hương còn phải thanh toán cho bà N số tiền còn lại là 74.600.000đ (bảy mươi tư triệu sáu trăm nghìn đồng). Tạm giao số tiền này cho chị Trần Thị H quản lý. Chị Trần Thị H có trách nhiệm giao cho bà Trần Thị N tổng số tiền là 93.600.000đồng khi bà N trở về.
5. Bà Trần Thị M, ông Trần Văn C, bà Trần Thị T mỗi người được hưởng 19.000.000đ giá trị kỷ phần thừa kế, ông C1 đã thanh toán xong giá trị kỷ phần thừa kế được hưởng của cụ A, cụ k cho chị M, ông C, bà T vào năm 2020.
6. Ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định của bản án.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, đương sự có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
7. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Miễn án phí cho ông Trần Văn C, ông Trần Văn C1, bà Trần Thị H1 vì thuộc đối thượng người cao tuổi. Miễn án phí cho chị Trần Thị M vì thuộc đối tượng con liệt sỹ.
Bà Trần Thị N phải nộp 4.680.000đ (bốn triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng) án phí. Bà Trần Thị T phải nộp 1.000.000đ (một triệu đồng) án phí.
8. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản số 137/2023/DS-ST
Số hiệu: | 137/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về