TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 102/2023/DS-PT NGÀY 17/05/2023 VỀ TRANH CHẤP THỪA KẾ TÀI SẢN
Trong các ngày 14 tháng 12 năm 2022 và ngày 16 tháng 01 và ngày 17 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 166/2022/TLPT-DS ngày 12 tháng 10 năm 2022 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản” do Bản án dân sự sơ thẩm số: 44/2022/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 138/2022/QĐPT-DS ngày 12 tháng 10 năm 2022 giữa các đương sự:
Đồng nguyên đơn: - Ông Danh S, sinh năm 1945 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 4, ấp X, xã B, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
- Anh Danh H, sinh năm 1984 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 18, khu phố L, thị trấn L, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Danh S, anh Danh H: Anh Chiêm Thành L, sinh năm 1993, ngụ tại ấp An Khương, xã M, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang- Theo văn bản ủy quyền đề ngày 16/12/2021.
- Ông Danh R, sinh năm 1955, chết vào ngày 27/01/2021 Địa chỉ: Khu phố L, thị trấn L, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Danh R:
+ Bà Thị Nh, sinh năm 1958 (vắng mặt) + Chị Thị M, sinh năm 1976 (vắng mặt) + Anh Danh L, sinh năm 1979 (có mặt) + Chị Thị Mo, sinh năm 1980 (vắng mặt) + Chị Thị Đ, sinh năm 1986 (vắng mặt) + Chị Thị Đe, sinh năm 1990 (vắng mặt) + Chị Thị B, sinh năm 2000 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Tổ 18, khu phố L, thị trấn L, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Thị Nh, anh Danh L, chị Thị Mo, chị Thị Đ, Thị M, Thị Đe, Thị B: Anh Chiêm Thành L, sinh năm 1993, ngụ tại ấp An Khương, xã M, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang- Theo văn bản ủy quyền đề ngày 16/12/2021 và ngày 25/02/2022 (có mặt).
Bị đơn: Bà Thị P, sinh năm 1966 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 5, ấp X, xã B, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
- Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Địa chỉ: Khu phố Minh An, thị trấn L, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang (có đơn vắng mặt) - Ông Danh B (Đức), sinh năm 1964 (chồng bà Thị P) (có mặt) - Anh Danh L, sinh năm 1989 (con của bà Thị P) (có mặt) - Anh Danh N, sinh năm 1991 (con của bà Thị P) (có mặt) - Anh Danh Đươm, sinh năm 1991 (con của bà Thị P) (có mặt) - Chị Thị Sa, sinh năm 1999 (vợ của anh Danh Đươm) (có mặt) Cùng địa chỉ: Ấp X, xã B, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Thị P và ông Danh B: Luật sư Mai Hồng H, thuộc Văn phòng luật sư Mai Hồng Hải – Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang.
Người phiên dịch của bà Thị P: Danh N, sinh năm 1991 (có mặt) Địa chỉ: Ấp X, xã B, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang (theo đơn yêu cầu và đề nghị của bà Thị P ngày 10/11/2022).
- Người kháng cáo: bị đơn bà Thị P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Danh B (Đức).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Nguyên đơn ông Danh S, Danh H và hàng thừa kế của ông Danh R trình bày: Cụ Danh Q (chết vào ngày 26/11/2002) và cụ Thị L (chết khoảng tháng 8/1978) là vợ chồng. Cụ Danh Q và cụ Thị L chết không để lại di chúc. Cụ Danh Q và cụ Thị L có được 04 người con gồm các ông, bà: Danh S, Danh R, Danh Khoi và Thị P.
Lúc sinh thời, cụ Danh Q và cụ Thị L có tạo dựng được các tài sản tọa lạc tại ấp X, xã B, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, gồm:
- Tài sản không tranh chấp:
+ 3.445m2 đất lúa thuộc thửa đất số 1034, tờ bản đồ số 06, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975233 do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp cho hộ ông (bà) Danh Q vào ngày 29/10/1998, được đánh biến động sang tên bà Thị P vào ngày 25/5/2010. Trước đây cụ Danh Q đã cho bà Thị P nên các nguyên đơn không tranh chấp.
Tài sản tranh chấp gồm:
+ 2.987m2 đất lúa thuộc thửa đất số 1115, tờ bản đồ số 06, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975237 do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp cho hộ ông (bà) Danh Q vào ngày 29/10/1998, được đánh biến động sang tên bà Thị P vào ngày 25/5/2010.
+ 4.535m2 đất lúa thuộc thửa đất số 1135, tờ bản đồ số 06, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975238 do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp cho hộ ông (bà) Danh Q vào ngày 29/10/1998, được đánh biến động sang tên bà Thị P vào ngày 25/5/2010.
+ Phần đất vườn trồng lá khoảng 1.000m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Phần đất thổ cư khoảng 500m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn liền với căn nhà cấp 4 của cụ Danh Q và cụ Thị L để lại mà hiện bà Thị P đang trực tiếp quản lý, sử dụng.
Các phần tài sản nêu trên của cụ Danh Q và cụ Thị L chưa chia, bà Thị P đã kê khai gian dối để nhận toàn bộ di sản thừa kế cho mình và được đánh biến động sang tên đối với thửa đất 2.987 m2 và phần đất 4.535 m2. Nay nguyên đơn khởi kiện:
- Hủy biến động sang tên bà Thị P vào ngày 25/5/2010 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975237 và M 975238 do UBND huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp cho hộ ông (bà) Danh Q vào ngày 29/10/1998. Công nhận đây là tài sản của cụ Danh Q và cụ Thị L để lại sử dụng chung.
- Công nhận phần đất thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975237 và số M 975238, phần đất vườn trồng lá khoảng 1000m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phần đất thổ cư khoảng 500m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn liền với căn nhà cấp 4 của cụ L và cụ Q để lại mà hiện bà Thị P đang trực tiếp quản lý, sử dụng là tài sản của hộ cụ Danh Q.
- Yêu cầu chia thừa kế toàn bộ phần đất của cụ Danh Q và cụ Thị L cho các ông, bà Danh S, Danh R, Danh Khoi (Danh Khoi đã chết, còn con là Danh H) và Thị P theo quy định của pháp luật.
Các đồng nguyên đơn không yêu cầu Tòa án chia thừa kế căn nhà cấp 4 của Danh Q và cụ Thị L để lại mà hiện nay bà Thị P đang trực tiếp quản lý.
- Bị đơn bà Thị P trình bày: Bà thống nhất với nguyên đơn trình bày về quan hệ gia đình, hàng thừa kế cũng như tài sản cha mẹ tạo lập như đã nêu trên. Cha mẹ là cụ Danh Q và cụ Thị L đã cho bà thửa đất số 1034, phần tài sản còn lại của cụ Danh Q và cụ Thị L chưa chia hiện tại đang do bà trực tiếp quản lý, sử dụng là đúng, trong đó có căn nhà cấp bốn của cụ Danh Q và cụ Thị L để lại thì vợ chồng bà đã sửa chữa lại vào tháng 5/2020.
Khi cha mẹ còn sống thì cha mẹ đã cho các ông Danh S, Danh R, Danh Khoi đất ruộng ở X rồi, cho bao nhiêu đất thì bà không rõ. Bà là con út, sống chung nhà với cha mẹ, trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ khi cha mẹ còn sống và lo ma chay cho cha mẹ khi cha mẹ chết. Khi Nhà nước thu hồi 711,9m2 đất thuộc thửa đất số 1.135 để thực hiện dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn- Cái Bé thì bà là người nhận tiền bồi thường là 260.000.000 đồng, bà đã chi xài hết số tiền này cho cá nhân.
Nay bà không đồng ý chia di sản còn lại của cụ Danh Q và cụ Thị L cho các nguyên đơn, bà chỉ đồng ý chia chia di sản còn lại của cụ Danh Q và cụ Thị L cho vợ chồng bà và các con của bà là Danh L, Danh N và Danh Đươm.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Danh B trình bày: ông thống nhất lời trình bày của bà Thị P, toàn bộ tài sản của cụ Danh Q và cụ Thị L để lại hiện nay do vợ chồng ông đang trực tiếp quản lý, sử dụng. Ông lập gia đình với bà Thị P vào năm 1987, có 03 người con chung là Danh L, Danh N và Danh Đươm. Hiện nay thì Danh L còn ở chung với vợ chồng ông tại phần đất thổ cư của cụ Danh Q và cụ Thị L để lại. Danh Đươm và vợ là Thị Sa đang ở trên phần đất đất vườn trồng lá của cụ Danh Q và cụ L để lại. Nay ông không đồng ý chia thừa kế 02 phần đất ruộng thuộc các thửa đất số 1115 và 1135 của cụ Danh Q và cụ Thị L để lại cho các nguyên đơn vì Nhà nước cấp 02 phần đất ruộng này là có cấp cho ông một phần.
Ông yêu cầu Tòa án cho Danh Đươm được sử dụng phần đất vườn trồng lá 901,9m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hiện nay có nhà của Danh Đươm; phần đất thổ cư 418,3m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thuộc quyền sử dụng của ông và bà Thị P.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Danh Đươm và chị Thị Sa trình bày:
Anh Danh Đươm là con của bà Thị P và ông Danh B. Vào tháng 4/2015, anh Danh Đươm và chị Thị Sa san lấp, khai phá phần đất vườn trồng lá của cụ Danh Q và cụ Thị L để lại (đo đạc thực tế là 901,9m2), đến tháng 3/2016 thì anh Danh Đươm và chị Thị Sa cất căn nhà cấp bốn khoảng 700 triệu đồng để ở trên phần đất này cho đến nay.
Anh chị không đồng ý chia di sản thừa kế theo yêu cầu của các nguyên đơn vì đây là đất bà Thị P cho vợ chồng anh.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Danh L trình bày: Anh là con của ông Danh B và bà Thị P, đang ở chung với ông Danh B và bà Thị P tại phần đất thổ cư. Anh không đồng ý chia di sản thừa kế theo yêu cầu của đồng nguyên đơn.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Danh N trình bày: Anh là con của ông Danh B và bà Thị P, anh đã có gia đình riêng và không ở trên đất tranh chấp. Anh không đồng ý chia di sản thừa kế theo yêu cầu của đồng nguyên đơn vì anh nghe nói khi ông bà ngoại còn sống thì ông bà ngoại đã cho ông Danh S, Danh R, Danh Khoi đất ruộng rồi.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2022/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
1- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Hủy nội dung đánh biến động sang tên bà Thị P vào ngày 25/5/2010 trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975237 và giấy số M 975238 và do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp cho hộ ông (bà) Danh Q vào ngày 29/10/1998. Công nhận phần diện tích trong 02 giấy nêu trên là tài sản chung của cụ Danh Q và cụ Thị L để lại cùng sử dụng chung.
2- Công nhận các diện tích đất lúa 2.987m2 và diện tích đất lúa 3.491,5m2 nêu trên; 901,9m2 đất ở nông thôn, cây lâu năm và 418,3m2 đất ở nông thôn, cây lâu năm gắn liền với căn nhà cấp 4 của cụ Thị L và cụ Danh Q để lại là của hộ cụ Danh Q.
3- Công nhận cho ông Danh S được quyền sử dụng diện tích đất lúa 2.987m2 thuộc thửa đất số 1115 và diện tích đất lúa 3.491,5m2 thuộc thửa đất số 1135. Buộc bà Thị P, ông Danh B, anh Danh L, anh Danh N, anh Danh Đươm và chị Thị Sa phải có trách nhiệm liên đới giao cho ông Danh S được quyền trực tiếp sử dụng, quản lý diện tích đất nêu trên. Ông Danh S có quyền, nghĩa vụ liên hệ đến các cơ quan chuyên môn làm thủ tục để được sang tên quyền sử dụng đối với diện tích đất nêu trên theo quy định của pháp luật.
4- Chia cho ông Danh S diện tích đất lúa là 1.074,6m2 thuộc thửa đất tách từ thửa đất 1135, có giá trị với số tiền là 996.154.000đ (Chín trăm chín mươi sáu triệu, một trăm năm mươi bốn ngàn đồng).
5- Buộc ông Danh S phải có nghĩa vụ thối lại cho bà Thị P giá trị diện tích đất lúa là 1.897,1m2 thuộc thửa đất tách từ các thửa đất 1115, 1135 với số tiền là 1.007.800.227đ; thối lại cho những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Danh R giá trị diện tích đất lúa là 1.801,3m2 thuộc thửa đất tách từ các thửa đất 1115, 1135 với số tiền là 956.908.202đ; thối lại cho anh Danh H giá trị diện tích đất lúa là 1.705,5m2 thuộc thửa đất tách từ các thửa đất 1115, 1135 với số tiền là 906.016.176đ.
6- Công nhận cho bà Thị P được quyền sử dụng đất ở nông thôn, cây lâu năm có tổng diện tích là 901,9m2( có giá trị là 515.582.400đ) và quyền sử dụng đất ở nông thôn, cây lâu năm có diện tích là 418,3m2 (có giá trị là 265.202.200đ). Bà Thị P có quyền, nghĩa vụ liên hệ đến các cơ quan chuyên môn làm thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên theo quy định của pháp luật.
7- Buộc bà Thị P phải có nghĩa vụ thối lại cho các nguyên đơn, mỗi phần là ¼ giá trị của 02 diện tích đất ở nông thôn, cây lâu năm nêu trên. Cụ thể: ông Danh S được chia với số tiền là 128.895.600đ và 66.300.550đ; người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Danh R được chia với số tiền là 128.895.600đ và 66.300.550đ; anh Danh H được chia với số tiền là 128.895.600đ và 66.300.550đ.
8- Công nhận cho bà Thị P được quyền sở hữu căn nhà có trên diện tích đất ở nông thôn, cây lâu năm là 418,3m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí đo đạc, định giá, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 25 tháng 7 năm 2022, bị đơn bà Thị P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Danh B (Đức) kháng cáo với nội dung: Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2022/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Anh Chiêm Thành L (người đại diện theo ủy quyền của ông Danh S, anh Danh H, bà Thị Nh, các anh, chị Thị M, Danh L, Thị Mo, Thị Đ, Thị Đe, Thị B) vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện. Tuy nhiên, do phát sinh thêm người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên đề nghị hủy bản án dân sự sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định pháp luật.
Bị đơn bà Thị P và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Danh B (Đức) vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Thị P và ông Danh B đề nghị hủy bản án dân sự sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và đánh giá chứng cứ chưa toàn diện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang phát biểu quan điểm:
Về việc chấp hành pháp luật: Từ khi thụ lý cho đến trước khi tuyên án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Bản án dân sự sơ thẩm chia thừa kế quyền sử dụng đất trong đó có diện tích đất vườn 1.000m2 (đo đạc thực tế là 901,9m2) và phần đất thổ cư 500m2 (đo đạc thực tế là 418,3m2) chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tại Công văn số 215/UBND-TNMT ngày 18/6/2021 của Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành và Công văn 223/CNVPĐKĐĐ-ĐKCG ngày 06/7/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Châu Thành chưa xác định các diện tích đất này có đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không nhưng cấp sơ thẩm vẫn chia thừa kế quyền sử dụng đất này là không đảm bảo quyền lợi cho đương sự, bản án có hiệu lực pháp luật không thể thi hành, mặt khác tại phiên tòa phúc thẩm, anh Danh L trình bày trên phần nhà đất tranh chấp chia thừa kế còn có chị Thị Noi là vợ của anh đang sinh sống, do đó cần phải đưa chị Thị Noi vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đề nghị Tòa án áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự hủy bản án dân sự sơ thẩm, giao về cho Tòa án nhân dân huyện Châu Thành giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật: Cụ Danh Q chết ngày 26/11/2022, cụ Thị L chết khoảng tháng 8/1978. Thời điểm mở thừa kế của cụ Thị L trước ngày 10/9/1990 nên áp dụng Điều 36 Pháp lệnh thừa kế năm 1990 và hướng dẫn Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xác định thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10/9/1990, tính đến thời điểm Tòa án thụ lý vụ kiện là ngày 15/7/2020 thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế vẫn còn. Cụ Q, cụ L chết không để lại di chúc, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2015.
[2] Về hàng thừa kế của cụ Danh Q và cụ Thị L: cụ Danh Q và cụ Thị L có 04 người con là ông Danh S, Danh R, Danh Khoi và bà Thị P. Ông Danh Khoi chết năm 1986, có một người con duy nhất là anh Danh H. Ông Danh R chết ngày 27/01/2021, người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Danh R gồm có bà Thị Nh (vợ) và các con là Thị M, Danh L, Thị Mo, Thị Đ, Thị Đe, Thị B. Cấp sơ thẩm xác định người được hưởng thừa kế của cụ Danh Q và cụ Thị L gồm có: ông Danh S, bà Thị P, ông Danh R, anh Danh H (thừa kế thế vị) là đúng quy định tại Điều 613, 651, 652 của Bộ luật dân sự năm 2015.
[3] Về di sản: các nguyên đơn cho rằng khi cụ Danh Q và cụ Thị L còn sống có tạo lập được các tài sản như sau:
1. Đất lúa có diện tích 3.445m2 thuộc thửa đất số 1034, tờ bản đồ số 06, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975233 do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp cho hộ ông (bà) Danh Q vào ngày 29/10/1998, được đánh biến động sang tên bà Thị P vào ngày 25/5/2010. Trước đây cụ Danh Q đã cho bà Thị P nên các nguyên đơn không tranh chấp.
2. Đất lúa có diện tích 2.987m2 (đo đạc thực tế 3.161,8 m2) thuộc thửa đất số 1115, tờ bản đồ số 06, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975237 do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp cho hộ ông (bà) Danh Q vào ngày 29/10/1998, được đánh biến động sang tên bà Thị P vào ngày 25/5/2010.
3. Đất lúa có diện tích 4.535m2 thuộc thửa đất số 1135, tờ bản đồ số 06, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975238 do Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cấp cho hộ ông (bà) Danh Q vào ngày 29/10/1998, được đánh biến động sang tên bà Thị P vào ngày 25/5/2010. Ngày 12/9/2019 Nhà nước thu hồi diện tích đất 711,9 m2 để thực hiện dự án hệ thống thủy lợi Cái Lớn – Cái Bé. Diện tích còn lại là 3.823,1 m2.
4. Phần đất vườn trồng lá đo đạc thực tế 901,9 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có 239,5 m2 đất thuộc hành lang an toàn giao thông.
5. Phần đất thổ cư và vườn đo đạc thực tế 418,3 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn liền với căn nhà cấp bốn của cụ Danh Q và cụ Thị L để lại mà hiện bà Thị P đang trực tiếp quản lý, sử dụng.
6. Đối với phần nhà của cụ L và cụ Danh Q để lại các nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện, không tranh chấp và không yêu cầu chia thừa kế phần tài sản này.
Bà Thị P, ông Danh B thừa nhận phần đất vườn trồng lá đo đạc thực tế 901,9 m2 và phần đất thổ cư và vườn đo đạc thực tế 418,3 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản của cụ Danh Q và Thị L để lại. Đối với diện tích đất lúa như nguyên đơn trình bày thì bà Thị P và ông Danh B chỉ thừa nhận một phần là di sản do cụ Danh Q để lại, vì đây là đất cấp cho hộ gia đình bao gồm ông Danh Q, bà P và các con của bà P.
Xét thấy, quyền sử dụng đất lúa được Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975237 và M 975238 cho hộ ông Danh Q vào ngày 29/10/1998, được đánh biến động sang tên cho bà Thị P theo diện nhận thừa kế vào ngày 25/5/2010. Việc bà Thị P kê khai nhận thừa kế và được chuyển quyền sang tên toàn bộ quyền sử dụng đất nêu trên từ ông Danh Q nhưng chưa có ý kiến của các đồng thừa kế khác là không đúng quy định pháp luật.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975237 và M 975238 có nội dung cấp cho hộ ông Danh Q. Tại Công văn số 120/UBND-TNMT của Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành ngày 13/4/2021 xác định diện tích đất lúa nêu trên là cấp cho hộ gia đình ông Danh Q không phải cấp cho cá nhân ông Danh Q (BL 153). Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành và Ủy ban nhân dân xã B không xác định được hộ gia đình tại thời điểm cấp giấy gồm những ai thì cần phải căn cứ vào sổ hộ khẩu tại thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để xác định các thành viên hộ gia đình. Theo Công văn số 161/CAH- QL-HC ngày 18/02/2022 của Công an huyện Châu Thành xác định vào khoảng thời gian từ năm 1997 đến năm 1998 hộ ông Danh Q có các nhân khẩu gồm có: ông Danh Q, bà Thị P, anh Danh L, Danh N, Danh Đươm (BL 181).Như vậy, di sản thừa kế của cụ Danh Q để lại chỉ là 1/5 của diện tích đất 2.987m2 (đo đạc thực tế 3.161,8 m2) thuộc thửa đất số 1115, tờ bản đồ số 06, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975237 và 1/5 của diện tích đất 4.535m2 (chưa trừ diện tích bị thu hồi) thuộc thửa đất số 1135, tờ bản đồ số 06, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 975238 .Việc cấp sơ thẩm xác định toàn bộ diện tích đất lúa nêu trên là di sản của cụ Danh Q để lại phân chia thừa kế là chưa chính xác.
[ 4] Phần đất vườn trồng lá đo đạc thực tế 901,9 m2 trong đó có 239,5 m2 đất thuộc hành lang an toàn giao thông và phần đất thổ cư và vườn đo đạc thực tế 418,3 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các đương sự đều thống nhất đây là phần đất do cụ Danh Q và Thị L khai phá để lại. Tuy nhiên, tại Công văn số 215/UBND-TNMT ngày 18/6/2021 của UBND huyện Châu Thành trả lời cho Tòa án nhân dân huyện Châu Thành có nội dung các thửa đất số 19, 27, 164, 165 tờ bản đồ địa chính số 22 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trên sổ Mục kê đất đai thì các thửa đất nêu trên còn bỏ trống, chưa có hộ gia đình, tổ chức nào đăng ký kê khai. UBND huyện Châu Thành không nắm được các thửa đất nêu trên có đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không nhưng cấp sơ thẩm đã đưa ra chia thừa kế và tuyên công nhận quyền sử dụng đất này cho bà Thị P, bà P chia giá trị cho các đồng thừa kế khác là chưa đủ cơ sở pháp lý. Tòa án chỉ công nhận quyền sử dụng đất cho đương sự trong trường hợp có căn cứ xác định việc sử dụng đất phù hợp với quy định pháp luật đất đai và có đủ điều kiện để công nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này UBND huyện Châu Thành không xác định được quyền sử dụng đất nêu trên có đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không nhưng Tòa án đã công nhận quyền sử dụng đất cho đương sự là không đảm bảo thi hành án trong trường hợp bản án có hiệu lực pháp luật.
[5] Các đương sự trong vụ án đều xác nhận bà Thị P ở cùng cha mẹ, bà P và ông Danh B là người đang quản lý, sử dụng di sản thừa kế của cụ Danh Q và cụ Thị L để lại, lẽ ra khi phân chia di sản thừa kế, Tòa án cần phải xem xét đến công sức đóng góp, gìn giữ quản lý di dản của bà Thị P và ông Danh B để chia phần nhiều hơn, cấp sơ thẩm cho rằng bà Thị P đã được ông Danh Q tặng cho quyền sử dụng đất lúa diện tích 3.445 m2 nên không xem xét đến công sức đóng góp, gìn giữ quản lý di sản thừa kế của bà Thị P và ông Danh B là chưa đảm bảo quyền lợi cho bà P, ông B.
Đối với phần đất vườn trồng lá đo đạc thực tế 901,9 m2 trong đó có 239,5 m2 đất thuộc hành lang an toàn giao thông. Cấp sơ thẩm phân chia thừa kế bao gồm đất thuộc hành lang an toàn giao thông là chưa chính xác.
Tại phiên tòa phúc thẩm phát sinh tình tiết mới. Anh Danh L khai trên phần nhà đất tranh chấp chia thừa kế có chị Thị Noi là vợ anh Danh L sinh sống trên đất từ năm 2021 đến nay nhưng không khai báo trong quá trình Tòa án sơ thẩm giải quyết vụ kiện nên Tòa án cấp sơ thẩm không biết để đưa tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Thị Noi, cần thiết phải đưa chị Thị Noi tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang, chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, hủy bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
[7] Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Được xác định khi vụ án đưa ra giải quyết lại.
Án phí dân sự phúc thẩm: Bà P, ông B không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, bà P, ông B được nhận lại mỗi người 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009581 và 0009580 ngày 25/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 44/2022/DS-ST ngày 12 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm theo quy định pháp luật.
2. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Được xác định khi vụ án đưa ra giải quyết lại.
- Án phí dân sự phúc thẩm: Bà P, ông B không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, bà P, ông B được nhận lại mỗi người 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009581 và 0009580 ngày 25/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp thừa kế tài sản số 102/2023/DS-PT
Số hiệu: | 102/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 17/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về